Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

TRẦN HOÀNG NGHỊ - THÂN SINH TRẦN THỦ ĐỘ. MỘ TẠI HƯNG HÀ, THÁI BÌNH ?



Lời biên tập viên
Sau bài đăng Nhân thần Trần Hoằng Nghị hay Thiên thần Hoằng  Nghị Đai Vương, tôi đã nhận được bài viết của tác giả Trần Phước Bình ở Quảng Nam. Bài viết rất công phu trên cơ sở tra cứu nhiều tài liệu sử phả bằng chữ Hán cũng như bộ Đại Việt sử ký toàn thư, tác giả đã đi đến kết luận:

"Nếu căn cứ bản gia phả chi họ Trần thôn Phượng La, hoặc tư liệu truyền khẩu, để xác định ngôi mộ đất, không có mộ chí là của ngài Trần Hoàng Nghị tại Hải Ấp, Hưng Hà, Thái Bình là thiếu tính thuyết phục. Song nếu được công nhận, thì những nghi thức lễ hội truyền thống hàng năm tại Đền Trần, Nam Định vẫn phải được lưu giữ.
Nơi Phủ đệ của ngài Thủ Độ ở Quắc Hương (địa danh này, ĐVSKTT chép một lần vào năm Thiệu Long thứ 4/1261) là địa bàn nên khảo cứu, tìm kiếm những mộ chí cổ. Ví như mộ chí của Sử thần Lê Văn Hưu mãi đến gần đây dòng họ mới tìm lại được.
Bản gia phả của chi họ Trần thôn Phượng La, theo gia phả Nghệ An trích dẫn, trong đó có đời Trần Hoàng Nghị cách đây trên 800 năm, là di sản đặc biệt quý. Đề nghị Ban sử phả dòng họ sớm có kế hoạch thầm định, nhờ các nhà sử học giúp đỡ, đánh giá, xếp hạng nguồn tư liệu này".

 Sau đây là toàn văn bài viết cuả tác giả 


TRẦN HOÀNG NGHỊ - THÂN SINH TRẦN THỦ ĐỘ. MỘ TẠI HƯNG HÀ - THÁI BÌNH ?

I. Tư liệu:
Đại Việt sử ký toàn thư:
Kỷ nhà Trần:  THÁI TÔNG HOÀNG ĐẾ:
Chép: “ ... Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mãn (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, ...”
Đời Thánh Tông, năm Nhâm Tuất (Thiệu Long) thứ 5(1262). Mùa xuân tháng 2, Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên, mỗi người được ban tước hai tư, đàn bà được hai tấm lụa.
Đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây riêng một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi cung Trùng Hoa. Lại làm chùa ở phía tây cung Trùng Hoa, gọi là chùa Phổ Minh. Từ đó vè sau, các vua nhường ngôi đều ngự ở cung này.
Năm Thiệu Long thứ 10 (1267) tháng 3, định ngọc diệp phái chính dòng họ vua của vương hầu, công chúa để phong ấm, gọi là “Kim chi ngọc diệp”, cháu 3 đời được phong tước hầu hay quân vương, cháu 4 đời được ban tước minh tự, cháu 5 đời ban tước thượng phẩm. Tước phong theo ngũ phục đồ.
Kỷ nhà Lý (BK4/26a - trang 357, tập I):
Kỷ Tỵ (Trị Bình Long Ứng) thứ 5 (1209) Mùa xuân, tháng giêng ... Hoàng thái tử (Sảm) đến thôn Lưu Gia (nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ”.
Canh Ngọ (Trị Bình Long Ứng) năm thứ 6 (1210). Mùa xuân, tháng 3, vua sai Thượng phẩm phụng nghị là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Tự đón Hoàng thái tử về Kinh sư, còn người con gái (Trần thị) thì về nhà cha mẹ. Bấy giờ Trần Lý đã bị bọn giặc khác giết, con thứ là Trần Tự Khánh thay đem quân chúng về kinh, được phong là Thuận Lưu bá.
Tân Mùi, Kiến Gia năm thứ 1 (1211), tháng 2, vua lại sai Phụng nghị là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng Tá Chu đưa Trần thị đi. Gặp khi Tô Trung Từ và Đỗ Quảng đang đánh nhau ở bến Triều Đông, Tá Chu bèn đỗ thuyền ở bến Đại Thông. Đến khi Đỗ Quảng bị thua, vua sai Bố và Trung Từ đón Trần thị vào cung, lập làm nguyên phi, cho Trung Từ làm Thái úy phụ chính; phong Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chưởng Thành hầu”.
* Dưới triều Nguyễn, năm Khải Định thứ 2, Pháp Độ công được sắc phong thần, viết:
“... Bản cảnh Sơn Nam hách trạc Pháp Độ chi thần ...”

  MỘT SỐ GIA PHẢ của dòng họ tại Nghệ An (nguyên âm Hán tự) chép:

1. Gia phả CHI HỌ ĐÔNG THÁP – DÒNG TRẦN CHÂN TỊCH.
“Cái chiếu : Lê Thần Tông hiệu Vĩnh Tộ  niên gian Đệ ngũ niên, Trần tộc gia phả biên soạn tam ngoạt thập ngũ nhật. Hậu duệ bản quán tại Bá Truyền Châu tục hiệu Trấn Đông, lưu cư Sơn Nam xứ, Thiên Trường huyện, Tức Mặc hương, kim Nam Định...”

2. Gia phả CHI HỌ ĐAN TRUNG, tại xã Diễn Thắng, huyện Diễn Châu.
« Cái văn: Phổ chi tác giả, cái niệm vật bản hồ thiên, nhân sinh do tổ. Thái đại truy viễn nhi công đức bất thiên, chi phái duy giả nhi bản chi phất thế, phi nhi tích đơn  vọng Tổ thực giả tai. Sơ khảo ngã Trần gia tích tự Sơn Nam tỉnh kim Hải Dương... »

3. Gia phả CHI HỌ DIỆU ỐC – DÒNG TRẦN CHÂN THIÊN.
 « Bảo Đại bát niên, tuế thứ Quý Dậu bát nguyệt trung thu tiết.
Chi trưởng tự tôn Trần Thọ Bang bái chí đồng tộc Đại tôn hàn lâm soạn thảo, cử nhân Trần Nguyên Tự phụng thảo.
Thế phổ tiểu dẫn: Ngã tộc kỳ tiên Trung Hoa, Mân nhân, thiên Sơn Nam (kim Nam Định), Tức Mặc hương ... »

4. Gia phả CHI HỌ YÊN HẬU (1),Huyền Thông tại xã Diễn Lâm, huyện Diễn Châu:
 « Lê triều ngũ niên tam nguyệt thập ngũ nhật, Nghệ An trấn thừa tuyên, Diễn Châu phủ, Quỳnh Lưu huyện, trại Đầm Trang Trần Thuần Tín đồng tộc đẳng vị lập Gia phổ sự.
Nguyên ngã tộc dĩ thị Bắc quốc nhân Trung Hoa, Phúc Kiến, Mân nhân, Trần Bá Tiên, Lương triều mạt vị bình nam quốc. Tộc thuộc vãng sở Trần Bá Tiên phản hồi Bắc quốc, tộc thuộc ký cư Bá Truyền Châu, tục hiệu Trấn Đông. Thỉ tộc sở bị cửu lão đê thạc cơ cận bất thăng vãng vu Nam quốc.
Thỉ tổ Kinh lai cư Hải Dương, Đông Triều thế nghiệp ngư gia tầm thiên Sơn Nam tỉnh, Thiên Trường huyện, Tức Mặc hương...” (Quyển phổ do cụ Trần Thuần Tín biên tập từ năm Đinh Hợi đến năm Tân Mão 1651).

5. Gia phả CHI HỌ YÊN HẬU (2), trại Đầm Trang, huyện Quỳnh Lưu.
Hoàng triều Quý Tỵ niên (1653), Bản tộc phụng tả:
“Nghệ An trấn thừa tuyên, Diễn Châu phủ, Quỳnh Lưu huyện, trại Đầm Trang Trần Thuần Tín đồng tộc đẳng vi lập Gia phổ sự.
Nguyên ngã tộc kỳ tiên Trấn Đông, Phúc Kiến, Mân nhân, Thỉ tổ danh Kinh, thiên cư tại Sơn Nam xứ, tức Nam Định, Thiên Trường, Tức Mặc hương, ..”.

6. Gia phả CHI HỌ QUỲNH TỤ, dòng Trần Chân Thiên.
            (Thiếu phó Liêm quận công  bị khảo).
“Cái Văn: Nguyên ngã tộc kỳ tiên Trấn Đông, Phúc Kiến nhân, Thỉ tổ Kinh lai cư Sơn Nam xứ, Thiên Trường, Tức Mặc hương ...”

7. Gia phả CHI HỌ PHÚC THÀNH  huyện Yên Thành.                                                          
 “Ngã tộc kỳ tiên Trung Hoa, Mân nhân. Thỉ tổ Kinh lai cư Hải Dương, Đông Triều, Yên Sinh, tầm thiên Sơn Nam, Thiên Trường, Tức Mặc hương...”

II. LUẬN BÀN:
Theo chính sử Kỷ nhà Trần, đời Trần Thái Tông đã chép rõ tiên tổ của vua từ Thủy tổ Trần Kinh định cư tại làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (thuộc xứ Sơn Nam). Đời Thánh Tông xây dựng hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây riêng một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi cung Trùng Hoa. Lại làm chùa ở phía tây cung Trùng Hoa, gọi là chùa Phổ Minh. Từ đó về sau, các vua nhường ngôi đều ngự ở cung này.

Đến triều Nguyễn, năm Khải Đinh ban Sắc thần cho ngài Pháp Độ là con Trần Nguyên Hãn, cũng xác định dòng dõi nhà Trần tại Sơn Nam.
Về gia phả cổ thuộc dòng Trần Nguyên Hãn tại Nghệ An, hiện còn lưu giữ 9 tập gia phả cổ Hán tự, trong đó 7 bản có nêu sự tích Thủy tổ Kinh như đã trích dẫn. Qua phân tích có 5 bản xác định Thủy tổ Kinh từ Bắc quốc lưu cư đến xứ Sơn Nam, phủ Thiên Trường, hương Tức Mặc, thế nghiệp ngư gia ( bản gia phả chi Đan Trung xác định sự tích tại Sơn Namnay Hải Dương, rất có thể do người sao chép ghi nhầm. Bởi xứ Sơn Nam sau cải tỉnh Nam Định).
Còn lại 2 bản xác định Thủy tổ Kinh, trải qua đất Hải Dương (trước là Nam Sách), huyện Đông Triều, trước khi dời cư đến làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Về sự khác nhau này, qua xem xét bản gia phả chi Yên Hậu I, do cụ Trần Thuần Tín khảo cứu biên tập từ năm 1647 – 1651, chép Thủy tổ Kinh đầu lai cư đến đất Hải Dương... Nhưng đến năm 1653, cũng do cụ Thuần Tín phụng thảo gia phả chi Yên Hậu II, tại trại Đầm Trang thì chỉ còn « Thỉ tổ danh Kinh, thiên cư tại Sơn Nam xứ, tức Nam Định, Thiên Trường, Tức Mặc hương ». Như vậy, chính cụ Trần Thuần Tín đã tự phủ nhận sự tích Hải Dương mà cụ đã viết cho chi Yên Hậu I trước đó. Bản gia phả chi Phúc Thành chép : «Thỉ tổ Kinh lai cư Hải Dương, Đông Triều, Yên Sinh, tầm thiên Sơn Nam, Thiên Trường, Tức Mặc hương », bản này không chép năm lập gia phả, nên rất có thể chép lại bản của chi Yên Hậu I, bổ sung thêm tên xã Yên Sinh.
Đất Yên Sinh (An Sinh), năm Kiến Trung thứ 1, chép « Vua (Thái Tông) lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu (Trần Liễu) làm ấp thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh Vương » 

Trên những cơ sở đó, khẳng định hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường là đất tổ, và là nơi phát tích của nhà Trần, được vương triều quan tâm xây dựng thành trung tâm chính trị của quốc gia, đứng sau kinh thành Thăng Long, thì không thể nhầm lẫn.

Chính sử triều Lý, năm 1209, ... « Hoàng thái tử (Sảm) đến thôn Lưu Gia (nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên ... Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ”.
Năm 1210. Mùa xuân, tháng 3, « Vua (Lý Cao Tông) sai Thượng phẩm phụng nghị là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Tự đón Hoàng thái tử về Kinh sư, còn người con gái (Trần thị) thì về nhà cha mẹ. Bấy giờ Trần Lý đã bị bọn giặc khác giết, con thứ là Trần Tự Khánh thay đem quân chúng về kinh, được phong là Thuận Lưu bá ».

Chính sử triều Lý thuật lại sự kiện Hoàng thái tử Sảm gặp bà Trần Thị Dung là con gái ông Trần Lý tại thôn Lưu Gia. Đến năm 1210, vua Lý Cao Tông sai người đến nhà Tô Trung Từ đón Hoàng thái tử về kinh, còn người con gái về nhà cha mẹ. Chi tiết này đã xác nhận lúc bấy giờ bà Trần Thị Dung đang ở nhà cậu Tô Trung Từ tại thôn Lưu Gia thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình, như được lệnh chỉ của vua, bà về nhà cha mẹ, chuần bị cho ngày vua cho người đến rước. Sử không chép nhà cha mẹ của bà tại đâu, bởi bà là cô ruột của vua Trần Thái Tông, đã có quý hương Tức Mặc, đổi làm phủ Thiên Trường và chính sử đã ghi chép rõ ràng ở đầu đời Thái Tông.

Sự kiện bà Trần Thị Dung là Nguyên phi của vua Lý Huệ Tông (Thái tử Sảm), người thân của bà có 3 người được phong hàm tước : Cha là Trần Lý tước minh tự, cậu ruột là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ năm 1209. Anh trai là Trần Tự Khánh tước Thuận Lưu bá năm 1210. Tô Trung Từ làm Thái úy phụ chính, Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chưởng Thành hầu năm 1211. Điểm đáng chú ý là người cậu Tô Trung Từ được phong Điện tiền chỉ huy sứ, năm sau được thăng làm Thái úy phụ chính, có thể hiểu bà Dung được cha mẹ gửi gia đình người cậu Tô Trung Từ nuôi dạy, nên mới được hưởng đặc ân này.
Ngoài ra, theo phần Việt ngữ gia phả Nghệ Tĩnh năm Tân Tỵ 2001, trên cơ sở gia phả chi Yên Hậu, đã viết : « Cũng từ Yên Sinh làm nghề sông nước, cứu vớt được thầy địa lý trôi ở dòng sông, được thầy tạ ơn cho một huyệt đất phát đế vương ... ». Đoạn tiếp dẫn sách Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam của nhà XBVHTT.HN trang 67 : « Cuối đời nhà Lý nổi loạn khắp nơi. Thái tử Sảm chạy loạn về vùng Hải Ấp ở nhờ vào nhà Trần Lý. Thấy Trần Thị Dung có nhan sắc đẹp xin cưới làm vợ ... ». Phần trực hệ viễn tổ, các cụ chép : « Đời thứ nhất : Thỉ tổ Trần Quốc Kinh, người Phúc Kiến, Trung Quốc, ... cùng gia tộc sang Việt Nam, ở xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương, làm nghề chài lưới. Sau dời cư vào tỉnh Sơn Nam, ...
Đời thứ hai : Thế tổ Trần Hấp, con trưởng của tổ Trần Quốc Kinh, người Bắc quốc cùng cha sang Đông Triều, sau về Nam Định, phủ Thiên Trường, làng Tức Mặc. Ông bà sinh được 2 con trai, gái không rõ.
Con trưởng là ông Trần Lý dời cư về ở Hải Ấp, Thái Bình, làm nghề chài lưới.
Con thứ Trần Hoàng Nghị về ở ấp Ứng Mão, sinh được 3 người con trai : Trần An Quốc, Trần An Hạ, Trần An Bang (theo gia phả chi họ Trần thôn Phượng La).
Đời thứ ba : Thế tổ Trần Lý, bà người họ Tô, con gái Tô Hiến Thành. Ông bà sinh hạ được 3 con trai. Con trưởng Trần Tự Khánh, con trai thứ 2 là Trần Thừa, con trai thứ 3 là Trần Lễ, con gái là Trần Thị Dung (Linh Từ quốc mẫu), Trần Thủ Độ là con của Trần Hoàng Nghị, làm con nuôi ông bà Trần Lý từ ngày nhỏ, được thương yêu như con đẻ.

Những bản gia phả cổ tại Nghệ An, được các cụ tập hợp, biên soạn vào năm 2001, là vô cùng quý, có giá trị lưu giữ lâu dài, và là nguồn tư liệu cần thiết đối với những chi họ còn bị thất truyền đâu đó. Song những hạn nêu trên là không thể tránh khỏi, do bộ phận sưu tập, nghiên cứu về lịch sử dòng họ chưa được tập hợp rộng rãi, nên nhiều tư liệu chưa được đối chứng, thẩm định ...

Tóm lại, nếu căn cứ bản gia phả chi họ Trần thôn Phượng La, hoặc tư liệu truyền khẩu, để xác định ngôi mộ đất, không có mộ chí là của ngài Trần Hoàng Nghị tại Hải Ấp, Hưng Hà, Thái Bình là thiếu tính thuyết phục. Song nếu được công nhận, thì những nghi thức lễ hội truyền thống hàng năm tại Đền Trần, Nam Định vẫn phải được lưu giữ.
Nơi Phủ đệ của ngài Thủ Độ ở Quắc Hương (địa danh này, ĐVSKTT chép một lần vào năm Thiệu Long thứ 4/1261) là địa bàn nên khảo cứu, tìm kiếm những mộ chí cổ. Ví như mộ chí của Sử thần Lê Văn Hưu mãi đến gần đây dòng họ mới tìm lại được.
Bản gia phả của chi họ Trần thôn Phượng La, theo gia phả Nghệ An trích dẫn, trong đó có đời Trần Hoàng Nghị cách đây trên 800 năm, là di sản đặc biệt quý. Đề nghị Ban sử phả dòng họ sớm có kế hoạch thầm định, nhờ các nhà sử học giúp đỡ, đánh giá, xếp hạng nguồn tư liệu này.



Quảng Nam, ngày 25/01/2013.


Biên soan :   TRẦN PHƯỚC BÌNH.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét