Trang Gia phả 6

TRANG GIA PHẢ CÀNH TRƯỞNG, PHÁI THỨ
GIA PHẢ TIỂU PHÁI TỔ CAO ĐỨC THIỆM

LỜI  MỞ  ĐẦU

       Họ Cao Trần, xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, khởi  nguồn từ Thái tổ Trần Bong, tự Vô Ý từ vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hoá (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá) đến ấp Hoè Nha (sau là xã Hoành Nha, nay là xã Giao Tiến) khai cơ lập nghiệp vào năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1681 - 1705), triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705) và đổi từ họ Trần sang họ Cao đến nay đã trải qua hơn 330 năm với 15 thế hệ.

           Ngày 18 tháng Giêng, ngày giỗ của Thái tổ Vô Ý được lấy làm ngày giỗ Tổ chung hàng năm cho cả dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.

 

           Tổ Cao Đức Thiệm đời thứ 8 là con trai thứ ba tổ Cao Đức Trứ, cháu tổ Cao Đức Mậu thuộc cành Trưởng, phái Thứ (Ất phái) của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến. Tổ sinh năm Kỷ Mão (1819), mất ngày 3 thàng 12 năm Canh Thân (1860), hưởng 42 tuổi.

           Ngày 3 tháng Chạp hàng năm con cháu tập trung gặp mặt và tổ chức giỗ Tổ tại nhà thờ của phái nay là Hoạt Tế Đường, Xóm 4 Giao Tiến (trước là Xóm 8 Quyết Tiến và thôn Cộng Hòa cũ).

          Hậu duệ của Tổ ngày nay đã đến đời thứ 15 và có tới hàng trăm người đang làm ăn sinh sống ở nhiều vùng miền của Tổ quốc cũng như ở nước ngoài. Cây có gốc, nước có nguồn đó là quy luật của tạo hoá. Con người ta cũng vậy, phải có cội nguồn gốc rễ, có tổ tiên mới có con cháu hậu duệ ngày nay. Để các thế hệ con cháu hôm nay và mãi mai sau dù có đi đâu, ở đâu cũng biết về cội nguồn của mình, nhớ tới công ơn tổ tiên để ghi mãi không quên, kế thừa phát triển, đời đời nối dõi. Trong phái họ tổ chức biên soạn cuốn gia phả của phái tổ Cao Đức Thiệm cung cấp về phần phả hệ trong nội bộ phái để con cháu ngày nay cũng như sau này biết được thứ tự trên dưới và mối quan hệ gắn kết họ hàng trong chi trong phái. Trong cuốn gia phả này Ban biên soạn cũng cung cấp những nội dung về nguồn gốc, quá trình khởi nghiệp, xây dựng và phát triển của dòng họ Cao Trần qua các thời kỳ: ấp Hoè Nha đến xã Hoành Nha và sau là xã Giao Tiến, gắn liền với tiến trình lịch sử phát triển của đất nước, của địa phương và của dòng họ.

Phần Tham khảo tập hợp một số nội dung và thông tin để mọi người có thể tìm hiểu rộng thêm về dòng họ Cao Trần và phái Ất...

         Biên soạn lần thứ 1 được tiến hành từ đầu năm và đã hoàn thành vào cuối năm Kỷ Sửu (2009). Tổ chức biên soạn do ông Cao Quốc Sủng (đời 12) cùng với sự cộng tác của ông Cao Bá Khoát (đời 12), Cao Xuân Thiện (đời 13) đồng thời luôn nhận được sự nhiệt tình ủng hộ của các cụ, các ông và nhiều người trong phái về việc cung cấp thông tin, tài liệu, đóng góp ý kiến... Cuối năm 2018 nhân ngày giỗ tổ Cao Đức Thiệm, trong phái họ đã thống nhất tổ chức biên soạn hoàn thiện lại Gia phả của phái. Cuốn gia phả biên soạn lần thứ 2 được kế thừa của lần biên soạn thứ 1, nội dung có một số thay đổi: Trích dẫn Gia phả họ Cao Trần, thêm phần “Tổng quan” và sửa đổi một số chi tiết theo cuốn Gia phả in lần 2 năm 2020; bổ sung phần “Nhà thờ và Lăng mộ” của phái cùng các chi; sửa đổi và cập nhật thông tin mới trong phái; “Phần Tham khảo” cũng được bổ sung thêm.

          Cuốn “Gia phả phái Tổ Cao Đức Thiệm” hoàn thành vào mùa Thu năm Nhâm Dần 2022 với những nội dung chính: Trích Gia phả họ Cao Trần, Giao Tiến; Phả hệ phái tổ Cao Đức Thiệm (chi tiết); Phả hệ phái tổ Cao Đức Thiệm (tóm tắt); Phả đ; Nhà thờ và Lăng mộ; Tham khảo. 

       Cách ghi số thứ tự: cụm số thứ 1 chỉ thứ tự các Đời; cụm số thứ 2 chỉ thứ tự các Chi; cụm số thứ 3 chỉ thứ tự các Nhánh; cụm số thứ 4 chỉ thứ tự số người trong một đời. Ngày mất ghi theo Âm lịch. Từ 60 tuổi trở lên ghi là thọ, dưới 60 tuổi ghi là hưởng. Các địa danh ghi đến thôn là thuộc xã Giao Tiến, ghi đến xã là thuộc huyện Giao Thủy, ghi đến huyện là thuộc tỉnh Nam Định (tìm hiểu sâu về địa danh xem phần Tham khảo trang 226).

      Cuốn “Gia phả phái Tổ Cao Đức Thiệm” biên soạn lần 2, được lưu giữ tại Hoạt Tế Đường, nhà thờ các chi và trong nội bộ phái họ. Các thế hệ sau này dù đi đâu ở đâu cũng nhớ về cội nguồn, nhớ ơn sâu tiên tổ, nhớ kế thừa truyền thống tiếp tục việc tổ chức biên soạn Gia phả với chu kỳ khoảng 60 năm 1 lần, để nối dài mãi mãi không dứt và lưu truyền Gia phả phái họ chúng ta cùng con cháu muôn đời ...

                                                                   BAN BIÊN SOẠN 


PHẦN THỨ NHẤT

TRÍCH GIA PHẢ HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN

Lời tựa cuốn Gia phả gốc họ Cao Trần.

Tổng quan: Vài nét về nguồn gốc, quá trình khởi nghiệp, xây dựng và phát triển dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.

         Trích dẫn Phả hệ họ Cao Trần, Giao Tiến (Từ đời thứ 1 đến đời thứ 7).

Tạo hóa cho dòng họ để làm gốc, từ đó xây dựng và phát triển, kế thừa mãi mãi không dứt. Họ Cao ta phát tích từ họ Trần, dựng nền nếp từ Nha Chử, đời trước kể lại đời sau ghi chép, khẳng định cơ sở cội nguồn, chịu ơn sâu tiên tổ, mở mang dòng họ, tâm niệm ghi nhớ không quên. Nay biên tập phả này để con cháu đời đời sáng tỏ, các thế hệ đời đời nối dõi.

(Lời tựa dịch từ cuốn gia phả gốc bằng chữ Hán họ Cao Trần, Giao Tiến)

TỔNG QUAN VỀ NGUỒN GỐC

QUÁ TRÌNH KHỞI NGHIỆP, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA

DÒNG HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN.

 

      1 - Nguồn gốc dòng họ Cao Trần, Giao Tiến. 

      2 - Thời kỳ từ khởi nghiệp năm 1683 đến trước sông Hồng đổi cửa năm 1787.

      3 - Thời kỳ sông Hồng đổi cửa năm 1787

    đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

      4 - Thời kỳ từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.

                5 - Xây dựng từ đường họ và lăng mộ tổ.

1-   Nguồn gốc dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.

           Thái tổ húy Bong (có bản dịch là Bông), tự Vô Ý, gốc họ Trần. Năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), đời Vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), Thái tổ đưa người con trai thứ hai huý Căn, tự Công Bật từ vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định), làm ăn, sinh sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao. Thái tổ đã phải nhận một chức phận thấp để được định cư tại ấp, khi đó Thái tổ tuổi đã trung niên, Thái tôn tuổi đang trưởng thành. Bà Thái tổ và các con trai còn lại phần mộ đều ở quê cũ, không rõ sự thể đương thời như thế nào? chỉ biết rằng Thái tổ dặn lại và sau này được ghi trong phả lục.

     - Đôi câu đối ở từ đường họ.

           Đôi câu đối bằng chữ Hán được ghi lại ở từ đường họ vào thời Vua Lê Dụ Tông (1705 - 1728), niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705 - 1719), để nhắc nhở các thế hệ con cháu luôn nhớ tìm về nguồn cội của dòng họ.

         Phiên âm :

                             Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất

                             Khởi gia tự tích Ái châu lai

         Nghĩa là:

                             Nối đời con cháu từ Trần tộc

                            Nguồn gốc gia đình quê xứ Thanh

 

     - Năm chân linh Thái tổ Vô Ý đưa từ quê cũ ra quê mới để thờ:

                             Trần Quý Công tự Vô Tâm.

                             Trần Nhất lang tự Phúc Thiện.

                             Trần Nhị lang tự Phúc Tín.

                             Trần Tam lang tự Chân Không.

                             Trần Quế Hoa Nương.

       Phiên âm lời viết ở cuốn gia phả chữ Hán về 5 chân linh:

          “Dĩ thượng chư Chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán. Vô Ý Công thiên vu tư địa ấp, tập biên gia phả tương Trần tính duệ hiệu, thư vu thế phả chi thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã”

      Lược dịch:

            “Các vị Chân linh đời trước tổ Vô Ý, phần mộ nguyên ở quê cũ. Tổ Vô Ý chuyển cư đến đất mới, biên lập gia phả, đem nguyên duệ hiệu họ Trần viết trước thế phả để con cháu biết xuất xứ của dòng họ”.

            Năm chân linh trên được Thái tổ Vô Ý đưa đến quê mới để thờ và được ghi vào gia phả của dòng họ truyền lại đến ngày nay. Điều không bình thường ở đây là các chân linh không ghi tên cụ thể, phần mộ chỉ ghi ở quê cũ, nhưng không cho biết rõ ở địa phương nào?

- Lời tựa cuốn gia phả gốc bằng chữ Hán.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                              

       Phiên âm: Thiên tích tính dĩ lập tông bản, hệ sở tự xuất nhi, khởi gia xưng tỵ tổ, kế tự đương tư bất vong. Ngã Cao tộc phát tích tự Trần gia, triệu cơ yên vu Nha Chử, tiền tác hậu thuật, khẳng cấu khẳng đường. Ngưỡng thâm khải hựu chi nhân, cánh thiết tác cầu chi niệm, viên thị tập vi phả lục, vĩnh thị tông diêu, thứ hồ tự sự khổng minh nhi thế thứ khả kỷ giả dã”.

       Lược dịch:  “Tạo hóa cho dòng họ để làm gốc, từ đó xây dựng và phát triển, kế thừa mãi mãi không dứt. Họ Cao ta phát tích từ họ Trần, dựng nền nếp từ Nha Chử, đời trước kể lại đời sau ghi chép, khẳng định cơ sở cội nguồn, chịu ơn sâu tiên tổ, mở mang dòng họ, tâm niệm ghi nhớ không quên.

          Nay biên tập phả này để con cháu đời đời sáng tỏ, các thế hệ đời đời nối dõi”.

           Còn các chi tiết khác cũng không được gia phả ghi chép lại đầy đủ, nên việc tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc của dòng họ Cao Trần ta ngày nay là rất hạn chế và khó khăn.

          Thành tâm của con cháu trong dòng họ là luôn hướng tới tổ tiên, mong tìm kiếm về cội nguồn. Từ cuối những năm 50 cho đến năm 1997 của thế kỷ XX, dựa vào những căn cứ trên đã nhiều lần họ ta tổ chức khảo cứu ở vùng Thanh Hoá, nơi Thái tổ Vô Ý ra đi như được ghi trong gia phả, để tìm hiểu rõ thêm về nguồn gốc và thân thế sự nghiệp của Thái tổ, nhưng không có kết quả, có thể đây chỉ là nơi lập nghiệp, tạm cư không dài. 

          Tháng 10 năm 1999 khảo sát ở vùng Nghệ An đã có được thông tin quan trọng: Gia phả họ Cao Trần, Giao Tiến có những chi tiết trùng khớp với Gia phả dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ - Tĩnh.

           Năm 2000 sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu gia phả họ Cao Trần,  Giao Tiến. Hội đồng gia tộc dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ - Tĩnh đã tổ chức hội thảo và quyết định công nhận họ Cao Trần, Giao Tiến, Giao Thủy, Nam Định là hậu duệ tổ Trần Công Ngạn, thuộc phái tổ Trần Chân Tịch, húy Phúc Quảng (đời thứ 4, ở xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An), dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ - Tĩnh nay là dòng họ Trần Pháp Độ, Nghệ - Tĩnh (xem thêm Phần tham khảo, trang 214).

          Việc kết nối họ Cao Trần, Giao Tiến với dòng họ Trần Pháp Độ, Nghệ - Tĩnh, bước đầu mở ra cho dòng họ ta một mốc lịch sử mới. Thành quả đó thuộc về các cụ, các ông của nhiều thế hệ, qua nhiều năm gian khó tìm kiếm, đây là điều được ghi nhận.

           Nhưng cũng còn những vấn đề mà thế hệ ngày nay và có thể cả sau này cần phải tiếp tục tìm kiếm, nghiên cứu để làm sáng tỏ như:

- Năm chân linh trên không ghi tên cụ thể, phần mộ ghi tại cựu quán nhưng không ghi rõ địa danh ở địa phương nào, vậy các chân linh đó có  quan hệ như thế nào với Thái tổ Vô Ý.

- Nguyên nhân việc Thái tổ Vô Ý chuyển cư từ châu Hoan ra châu Ái, sau đó đến ấp Hòe Nha và đổi từ họ Trần sang họ Cao.

- Thái tổ Vô Ý có quan hệ thế nào với tổ Trần Công Ngạn.

- Thái tổ Vô Ý có làm quan hay không? trong phả gốc không có chỗ nào nói điều đó, nhưng có ghi hai con của Tổ được tập tước Công.       

          Những vấn đề trên cho đến nay cũng chưa có chứng cứ nào vững chắc để có câu trả lời xác đáng, một số ý kiến khảo cứu đưa ra còn nặng về dự đoán chưa đủ sức thuyết phục. Khi biên soạn cuốn gia phả lần này, phần nói về Thái tổ Vô Ý, Ban biên soạn vẫn căn cứ vào các bản cũ, khi nào thật sáng tỏ mới sửa đổi để tránh sai lầm và thiếu đồng thuận của nhiều người trong họ. Mong mọi người trong họ tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm để có được câu trả lời mà bao lâu nay trong dòng họ rất mong muốn.  

     2 -  Thời kỳ từ khởi nghiệp năm 1683, đến trước sông Hồng đổi cửa năm 1787.

       Khoảng năm Diên Ninh thứ 3 (1454 - 1459), triều vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459), dòng họ Nguyễn, đứng đầu là ông Nguyễn Thịnh Công (hậu duệ sau này là ông Nguyễn Khải còn gọi là Biểu Khải ở thôn Cộng Hòa) người gốc ở làng Hòe Nhai thuộc Bắc  thành Thăng Long, xuống vùng bãi biển Giao Thủy, thuộc trấn Sơn Nam, khai hoang, lập ấp và lấy tên làng cũ đặt cho nơi ở mới là ấp Hòe Nhai, lâu dần gọi chệch ra là Hòe Nha, sau là xã Hoành Nha và nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

          Kế tiếp là họ Hoàng do ông Hoàng Công, tự Võ Tâm đến lập nghiệp nơi đây cùng họ Nguyễn vào năm Hồng Đức thứ 23 (1470 - 1497), thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Tiếp sau họ Nguyễn, họ Hoàng là các họ khác: Mai, Lê, Vũ, Phạm, Cao Trần…tính đến nay có trên 60 dòng họ.

          Địa phận ấp Hòe Nha ban đầu ở vào khoảng Ngô Đồng ngày nay. Nằm bên tả ngạn sông Hồng (cửa sông Hồng khi đó là Hà Lạn), Đông Bắc giáp Dương Liễu, Thái Bình, cách nhau bằng con sông nhỏ chảy qua cồn bãi ra biển (tương truyền việc qua lại của dân hai bên sông được làm bằng một chiếc cầu tre nhỏ có buộc vài ba chiếc lạt tre, trận lũ lụt năm 1787 phá thành dòng chính của sông Hồng ra biển và được lấy điển tích của cây cầu buộc vài ba lạt tre đặt cho cửa sông Hồng mới là Ba Lạt); Bắc và Tây Bắc giáp sông Hồng (sau lũ lụt năm 1787 đoạn sông Hồng cũ được thu hẹp lại gọi là sông Sò hiện nay), phía bên kia là huyện Xuân Trường; Đông và Nam còn lại giáp bãi bồi biển Đông.

          Vào những năm cuối niên hiệu Dương Hòa (1635 - 1643), đời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643), do vùng đất mới kém ổn định hay bị lún và sạt lở, nên cư dân đã di chuyển dần về phía cửa sông Hồng khi đó là Hà Lạn để tiếp tục khẩn hoang và xây dựng làng ấp. Việc hình thành làng ấp lần thứ nhất diễn ra hàng thế kỷ (1456 - 1787), trải qua nhiều thế hệ khai hoang, lấn biển, làm thủy lợi, ổn định nơi ở, phát triển sản xuất, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, văn hóa, xã hội…, dần dần hoàn chỉnh thành một làng trù phú ở vùng đất mới của huyện Giao Thủy.

       Theo tài liệu lịch sử thì tổng Hoành Nha được thành lập vào thời kỳ

Lê Cảnh Hưng (1750 – 1770) bao gồm 19 xã: Hoành Nha, Hoành Đông, Hoành Lộ, Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Khắc Nhất, Ngưỡng Nhân, Lạc Nông, Duyên Thọ, Tiên Chưởng, Sa Châu, Thanh Khiết, Đan Phượng, Văn Trì, Quất Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ, Diêm Điền, Đông Bình.

          Như vậy ấp Hòe Nha được đổi thành xã Hoành Nha có thể vào thời kỳ này hoặc sớm hơn (Một số tài liệu cho rằng: ấp Hoè Nha đổi thành xã Hoành Nha vào thời kỳ xây dựng làng xã lần thứ hai, tức là sau trận lũ lụt năm 1787 là không chính xác).

          Thái tôn Công Bật theo Thái tổ Vô Ý đến ấp Hoè Nha vào năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1681 - 1705), đời vua Lê Hy Tông (1676 - 1705) khi đó ở tuổi đang trưởng thành, vào thời kỳ làng ấp đang trong giai đoạn định hình lần thứ nhất, về tình hình lịch sử xã hội người đời bấy giờ ca ngợi là giai đoạn thịnh trị bậc nhất của thời Lê Trung Hưng (thời vua Lê, chúa Trịnh). Thái tôn khi trưởng thành, Tổ chăm lo phát triển kinh tế, đời sống ngày một khá hơn. Khi làng ấp hình thành, Thái tôn đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng các công trình văn hoá, xã hội trong ấp, như quy hậu Phật ở chùa Hưng Long (thôn Chính) năm 1713 và chùa Hưng An (thôn Thượng) năm 1718. Thực hiện được ý cha là sâu rễ, bền gốc ở nơi quê mới, làm ăn sinh sống lâu dài cùng với các dòng họ khác, lúc bấy giờ ấp Hòe Nha là vùng đất mới, dân cư còn thưa thớt. Tổ lấy 3 bà, sinh ra đông con nhiều cháu và từ đó phát triển dòng họ Cao Trần trở thành một trong các họ lớn ở vùng đất Hoành Nha sau này.

           Thái tôn không những chăm lo phát triển kinh tế, tham gia công việc xã hội, Tổ còn chăm lo việc dậy dỗ, học hành cho con cháu, sống tu nhân tích đức, xây dựng nên truyền thống và phong cách sống tốt đẹp cho dòng họ, như đôi câu đối được ghi lại ở từ đường họ như sau:

                               Gia truyền tín hậu di mưu viễn

                               Thế mộ thi thư nhã phạm tồn

          Nghĩa là:

                           Xây nền tín hậu để lại cho con cháu lâu dài

                           Chăm lo việc học hành làm nền nếp cho muôn thủa

            Con cháu của Tổ đến đời thứ 3 trở đi đã có người ra làm việc ở địa phương và nhà nước như: Thập lý hầu, Tri sự, Tri sự điện tiền, Lang tướng, Trung lang tướng…

           Họ Cao Trần, Giao Tiến ta bắt đầu từ Thái tôn Công Bật ngày càng phát triển và thịnh vượng trên vùng quê mới.

           Vào cuối đời Lê - Trịnh (1732 - 1787) xã hội phong kiến suy tàn, nội bộ giữa vua Lê và chúa Trịnh ngày càng mâu thuẫn, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp các vùng. Trong Nam nhà Tây Sơn đã đánh bại chúa Nguyễn, năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế. Năm 1786 Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ nhất, tiến vào Thăng Long thực hiện khẩu hiệu: “Phù Lê diệt Trịnh”.

           Thời kỳ này họ ta đã có những đóng góp tích cực cùng các họ khác trong xã, mở mang khai phá đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng để tồn tại và phát triển. Tham gia tổ chức bảo vệ an ninh của xã và các công việc của đất nước như: ông Cao Bá Tuân (đời thứ 5) với chức Thập lý hầu, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn giặc cướp (giặc Mèo), sau 7 ngày đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông Cao Đức Trung (đời thứ 5), thời nhà Lê có võ công được phong làm Lang tướng. Ông Cao Danh Tiêm (đời thứ 5) làm Tri sự, rồi đi tòng quân, sau tham gia đánh quân Thanh và hy sinh ở núi Tam Tầng, Kinh Bắc, Bắc Ninh. Ông Cao Đăng Dụng (đời thứ 6) làm Trung lang tướng cuối triều Lê, sau chuyển sang hàng ngũ Tây Sơn, đến triều nhà Nguyễn ông bỏ về quê.

           Việc học hành và con đường khoa cử của dòng họ Cao Trần trên đất Hòe Nha (sau là Hoành Nha) trải qua hơn thế kỷ, từ khi khởi nghiệp năm 1683 đến năm 1787, trong suốt thời kỳ xây dựng và phát triển làng xã lần thứ nhất không mấy thành công. Các ông: Cao Công Cái, Cao Bá Hân, Cao Danh Đạt, Cao Bá Tuân, Cao Đức Trung, Cao Đức Tuấn, Cao Đăng Dụng... đều rất kiên trì học hành, thi cử, nhưng không đỗ đạt cao. Các ông đều chuyển sang con đường binh nghiệp hoặc tham gia chính quyền địa phương, nhiều ông đã làm Tri sự, Tri sự Điện tiền, Lang tướng, Trung lang tướng, Thập lý hầu..., nhiều ông về mở trường dậy học, làm thuốc...

            Sự nghiệp của cha, ông ta trong thời kỳ này còn để lại đời sau những dấu ấn sâu sắc của thời kỳ khởi nghiệp, phát triển dòng họ, góp phần cùng các dòng họ khác xây dựng và phát triển làng xã lần thứ nhất. Họ Cao Trần ta khi này mới có khoảng hơn 30 đinh nam với hậu duệ đến đời thứ 5, thứ 6.

    3 -  Thời kỳ sông Hồng đổi cửa năm 1787  đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

          Ngày 15 - 8 (Âm lịch) năm Đinh Mùi (1787), đời vua Lê Mẫn Đế (1787 - 1789), niên hiệu Chiêu Thống năm thứ 1, một trận lũ lụt lớn đã xẩy ra ở vùng Giao Thuỷ, làm sông Hồng đổi dòng đổ thẳng ra biển, tạo ra cửa sông Hồng mới là Ba Lạt ngày nay (sự kiện này còn gọi là Ba Lạt phá hội), đoạn sông Hồng chảy ra cửa Hà Lạn cũ bị thu hẹp lại (sông Sò hiện nay). Xã Hoành Nha từ tả ngạn sông Hồng, chuyển thành hữu ngạn sông Hồng, sản nghiệp bị nước lũ cuốn trôi, cư dân thất tán làng xã thay đổi, hai bên lưu vực sông bị phù sa bồi đắp thành cồn bãi. Thiên tai nặng nề tàn phá, đây là một sự kiện lịch sử về địa lý lớn nhất của thời kỳ này. Sau trận lũ lụt dân cư lại trở về, xây dựng lại làng xã lần thứ hai. Họ Cao ta có các ông: Thập lý hầu Cao Danh Đạt (Trọng Đạt), Tri bạ Cao Trọng Cẩn (Ngọc Cẩn), Tri bạ Cao Đức Tuấn, Cai hợp Thập lý hầu Cao Đức Mậu... đã đứng ra tham gia lo toan công việc của dòng họ và của làng xã.

           Đang khắc phục thiên tai, nơi ở mới chưa kịp ổn định, một tai hoạ nữa đe doạ họ ta đó là người họ Đinh ở thôn Chính nguyên là một viên quan trong vệ Kim ngô (thuộc Cấm quân) đang là Tiên chỉ xã, sợ ông  Cao Đức Trung có chức quan cao hơn khi về xã sẽ bị tranh mất, nên đã âm mưu cùng với một viên quan ở Thái Bình giết hại ông trên đường về khi thuyền tới đoạn sông từ Ngô Đồng đến dốc Hoành Nha bây giờ. Sau vài ngày giết hại ông  Đức Trung, Tiên chỉ họ Đinh đưa gia đinh sang định tiêu diệt cả họ Cao để trừ hậu hoạ. Khi ấy nhân đinh họ ta còn ít, làng xã lại mới chuyển cư lần thứ hai nên còn trù trừ chưa quyết định, thì xuất hiện ông Cao Đức Tuấn (đời thứ 6) là cháu ông Cao Đức Trung, đã dũng cảm dẫn đầu, chiến đấu tiêu diệt được Tiên chỉ họ Đinh trả thù cho chú và cứu được dòng họ.

 Công cuộc xây dựng lại làng xã lần thứ hai, sau nhiều năm mới được hoàn thành. Năm 1803, đời Vua Gia Long năm thứ 2 (1802 - 1819) xẩy ra vụ tranh chấp gần 500 mẫu ruộng công điền trên cánh đồng Phù sa (cánh đồng này được hình thành từ trận lũ lụt năm 1787, sông Hồng đổi cửa mới là Ba Lạt, xem Phù sa điền án). Các ông họ ta: Cao Trọng Đạt (đời thứ 4, cành Thứ), Cao Ngọc Cẩn (đời thứ 5, cành Trưởng), Cao Đức Mậu (Xã trưởng, đời thứ 6, Ất phái), đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực và 15 ông nữa trong xã: Phạm Tuấn Trạch (Hương mục), Nguyễn Quý Thực, Lê Huy Diệu, Lê Huy Lưỡng, Vũ Ngọc Cứ, Lê Huy Thước, Vũ Đình Đỗ, Lê Huy Tuấn, Vũ Đình Đạc, Đinh Danh Đức, Đỗ Không Liên, Phạm Đăng Mãn (Xã trưởng), Phạm Tuấn Nguyên, Phạm Tuấn Ngạn, Vũ Đình Lưu (Khán thủ) đại diện cho toàn xã tham gia tố tụng vượt cấp lên tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế). Kết quả sau nhiều năm, kiên trì đấu tranh gian khổ, đến năm Giáp Tuất 1814, niên hiệu Gia Long thứ 13, đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà.

          Năm 1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1820 - 1840) lại xẩy ra vụ tranh tụng đất đai trong nội bộ xã. Bọn hào, lý đã ba lần trưng chiếm 150 mẫu ruộng công điền, làm tư điền (xem Tam trưng điền án). Các ông ở họ ta: Cao Đức Cảnh (đời thứ 7, Bính phái), Cao Danh Hữu (đời thứ 7, Kỷ phái), Cao Đức Chí (đời thứ 8, Ất phái) và 25 ông nữa trong xã cùng tham gia do ông Tri bạ Vũ Thế Hào khởi xướng, cử người lên trấn (từ năm 1831 bỏ tổng trấn và đổi trấn thành tỉnh), vào kinh đô Huế khiếu kiện. Phải đến năm 1841 niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841 - 1847) mới giành được thắng lợi. Dựa vào kết quả vụ Tam trưng điền án, ông Cao Đức Bằng (đời thứ 8), cùng với bác là Cao Danh Quán (đời thứ 7) và anh rể Vũ Xuân Đồng đã đấu tranh lấy thêm được 6 mẫu tư thổ và 12 mẫu ruộng khác trong nội làng. Qua thắng lợi của hai vụ án này, đã để lại câu đối tế ở đình làng:

              Tiền Phù sa, hậu Tam trưng công đức trường lưu thiên tải hậu

              Ấp linh từ, gia tẩm miếu, hương đăng tăng mỵ vạn niên xuân

         Lược dịch:

 Án Phù sa, án Tam trưng, sự nghiệp đấu tranh công đức ngàn thu sáng tỏ

Miếu làng thờ, đền họ phụng, phụng thờ kế tự khói hương muôn thuở dài lâu

           Vào những năm 1858 - 1873, ở vùng Nam Định có Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đứng ra tổ chức lực lượng Nghĩa dũng quân vào Nam chiến đấu, tiễu phạt bọn phỉ người Trung Quốc ở vùng Đông Bắc, trấn thủ ở Hà Cát (thuộc huyện Giao Thủy) để bảo vệ vùng biên, đánh Pháp xâm lược ở Nam Định... Họ Cao ta tích cực ủng hộ, nhiều người trực tiếp tham gia và nhiều người có quân công được triều đình ban thưởng sắc văn: Chánh Thất phẩm Thiên hộ (Cao Đức Uẩn, Cao Như Sơn, Cao Đức Thắng, Cao Đức Tích, Cao Đức Tính), Tòng Thất phẩm Thiên hộ (Cao Như Ngu), Chánh Bát phẩm Bá hộ (Cao Đức Quý, Cao Đức Hinh, Cao Ngọc Hướng) và nhiều ông được cấp bằng Đội trưởng. Nhiều người trong họ đã tham gia quyên góp tiền cho Nghĩa dũng quân như ông: Cao Đăng Doanh, Cao Đăng Cử, Cao Danh Thăng với mức 1200 quan tiền, được triều đình ban thưởng Tòng Cửu phẩm Bá hộ sắc văn và 5 đồng Ngân Long (đồng tiền có con Rồng), ông Cao Đức Ý với mức 2200 quan tiền, được triều đình ban thưởng Chánh Cửu phẩm Bá hộ sắc văn và 10 đồng Ngân Long. Trong gia phả cũ của họ tiếc rằng không ghi được chi tiết cụ thể về thời gian cũng như địa điểm các ông tham gia, nên kết hợp với gia phả và khảo cứu về thân thế sự nghiệp của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Ban biên soạn chỉ xin bổ sung, sửa đổi vào gia phả lần biên soạn này một số ý để làm sáng tỏ thêm về sự nghiệp và công lao đóng góp của các ông với đất nước ở thời kỳ đó.

           Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, quê ở xã Tam Đăng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Đỗ Cử nhân năm 1837, Hoàng giáp năm 1838, khi mới 33 tuổi, được triều đình bổ nhiệm làm Tri phủ Lý Nhân. Năm 1845 nghỉ về quê dậy học và tổ chức nhân dân khai hoang lập ra ấp Sỹ Lâm (nay là 3 xã: Nghĩa Lâm, Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải, thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Năm 1858 làm Đốc học Nam Định, cũng vào năm đó Pháp tấn công Đà Nẵng, ông đã thành lập lực lượng Nghĩa dũng quân vào Đà Nẵng đánh Pháp, đến Huế thì quân Pháp đã rút, ông đưa quân ra Bắc tổ chức tiễu trừ bọn thổ phỉ người Trung Quốc đang quẫy nhiễu vùng Đông Bắc cho đến khi dẹp xong mới thôi, triều đình  thăng ông làm Hàn lâm viện Thị giảng Học sỹ. Năm 1866 ông được sung chức Thương biện đóng quân ở vùng Hà Cát để trông coi vùng biên. Năm Tự Đức thứ 26 (1873) ông làm Thị độc Học sỹ, mùa Đông năm đó Pháp đem quân đánh chiếm Hà Nội, rồi đánh luôn Nam Định. Bấy giờ ông đã 68 tuổi, ông vẫn tổ chức Nghĩa dũng quân chặn đánh quân Pháp ở ngã ba Độc Bộ, do quân ít đánh không nổi ông cho rút nghĩa quân về căn cứ Yên Hàn (Ý Yên, Nam Định)...(theo danh nhân đất Việt).

           Ruộng đất canh tác và chỗ ở của cư dân là vấn đề cơ bản để tồn tại cùng với sự phát triển thôn, xã. Thời kỳ đầu dân cư của 3 thôn (xã Hoành Nha khi đó có 3 thôn: thôn Chính, thôn Thượng, thôn Trung) sống tập trung ở các khu Cựu Thượng, Cựu Chính, Cựu Trung, các cơ sở hạ tầng và các công trình văn hoá, tín ngưỡng cũng được xây dựng chủ yếu ở đây. Thôn, xã dần được ổn định, ruộng đất được phân chia trên cơ sở số dân và công sức đóng góp khai phá xây dựng làng xã như sau: thôn Thượng 7 phần, thôn Chính 5 phần, thôn Trung 1 phần. Các thôn có đình, chùa, miếu riêng. Toàn xã là một tổ chức hành chính từ đó hình thành Hương ước Xã chế. Họ Cao ta sống ở thôn Thượng (giáp May, giáp Giữa, giáp Đông) tập trung ở thôn Cộng Hoà và thôn Việt Dũng sau này. Sau do sự phát triển, dân số ngày càng đông nên các phần đất tư thổ không còn. Họ Cao ta chỉ có chủ yếu hai phái ở lại phần đất cũ (Giáp phái và Ất phái), còn các chi, phái khác trong họ dần tách ra ở rải rác trên các phần ruộng đất được cấp trong xã. Riêng chi ông Cao Thế Hương (đời thứ 7, Bính phái), ông Cao Văn Đờn (đời thứ 7, Kỷ phái) ở phần đất cuối xã. Vào thời vua Minh Mạng (1820 - 1840) phần đất này được tách ra nhập vào xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu. Do vậy họ Cao ta có một biệt phái thuộc xã Giao Tân ngày nay.

           Địa bạ xã Hoành Nha được tổ chức biên lập đến năm Gia Long thứ 4 (1805) phải dừng lại do vướng vụ án Phù sa, năm Gia Long thứ 13 (1814) vụ án mới kết thúc. Sau đó công việc được tiếp tục, năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ngày 22 tháng 3 đã hoàn thành và được cấp trên xác nhận. Những viên mục tham gia lập và hoàn thiện Địa bạ xã Hoành Nha: Cai tổng Lê Huy Tuấn, Lý trưởng Cao Đăng Phong (đời thứ 7, Giáp phái), Trưởng thôn Cao Đức Nhuận (đời thứ 7, Ất phái), Hương mục: Vũ Đình Lựu, Cao Đức Trứ (đời thứ 7, Ất phái), Lê Huy Bỉnh (xem Địa bạ xã Hoành Nha).

          Về văn hoá, xã hội thời kỳ định hình làng xã lần thứ hai, theo tộc phả, họ Cao ta đã có công đóng góp ngay từ buổi ban đầu. Các ông: Cao Đức Mậu (đời thứ 6) với tư cách là Xã trưởng, con là Cao Đức Trứ (đời thứ 7) Phó tổng, cháu là Cao Đức Bằng (đời thứ 8) Cai tổng, đã cùng các tiên liệt trong họ, trong xã tổ chức dân kế tục xây dựng, tu bổ, tôn tạo các đình, chùa, miếu, công quán, cầu đường, đê điều thuỷ lợi, đặt ra các thể lệ lễ Tiết cổ truyền như: Xuân lễ, Thu lễ, Đình tế, lễ Tịch điền để khuyến nông ... Xây dựng Văn chỉ, mời các danh nho về xã thiết trướng để khuyến học, dành phần ruộng công để yến lão, bảo thọ, khuyến tiết và chăm sóc cô nhi, quả phụ. Trên cơ sở của thôn Thượng, sau đó đã hiệp thương với toàn xã hình thành Hương ước mở được kho thóc Nghĩa thương liên tục trong nhiều thập niên, nhờ vậy mà có thóc cứu trợ cho dân trong xã, cũng như dân hai

huyện Kiến Xương, Thư Trì, tỉnh Thái Bình mất mùa sang xã ta ăn xin vào năm Đinh Tỵ (1857) và có thóc cấp cho Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị ở thời kỳ đầu chống Pháp (1858 - 1873). Triều đình nhà Nguyễn thời vua Tự Đức đã ban thưởng cho Cai tổng Hoành Nha: Cao Đức Bằng, 3 đồng Ngân Long và cho xã Hoành Nha bức đại tự có 4 chữ: “Thiện tục khả phong”. Hoành Nha trở thành một xã có mỹ tục thuần phong, bức đại tự này được treo ở đình Giữa, thôn Việt Dũng (đình Giữa đã dỡ bỏ, nơi đây nay là nhà Văn hoá Xóm 10 Quyết Tiến) năm 1956 cải cách ruộng đất đã bị tháo bỏ. Cũng trong thời kỳ này biệt phái họ ta ở xã Duy Tắc (năm 1948 sáp nhập là xã Tân Dân, năm 1952 là xã Giao Tân) đứng đầu là các ông Cao Thế Hương (đời thứ 7, Bính phái) làm Lý trưởng đầu tiên vùng đất mới xã Duy tắc sau làm Cai tổng, tổng Hoành Thu và ông Cao Văn Đờn (đời thứ 7, Kỷ phái) làm Lý trưởng, đã có nhiều công lao đóng góp xây dựng phát triển xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu.   

          Kế tiếp truyền thống của tiền nhân vào đầu thế kỷ XX (1932 - 1936) các ông trong họ Cao Đức Thố (đời thứ 9), Cao Trung Kế (đời thứ 10), đã tham gia tố tụng vụ tham nhũng công điền của bọn lý dịch, kỳ hào trong xã nhưng vì nội bộ có sự chia rẽ, nên không đạt kết quả. Tiếp theo những năm trước Cách mạng tháng 8 có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do ông Vũ Đức Âu (Khải Ca), thôn Việt Dũng tổ chức, họ Cao có các cụ, các ông tham gia: Cao Xuân Thọ (đời thứ 9), Cao Trần Nhai (đời thứ 10), Cao Xuân Hạ (đời thứ 11) Cao Bá Uyên (đời thứ 11), Cao Ngọc Cảnh (đời thứ 11), sau đó lập ra Hội ái hữu tương thân (1942 - 1944), ban đầu cụ Cao Trần Nhai là Hội trưởng sau chuyển ông Cao Xuân Hạ làm Hội trưởng. Hội đã tổ chức đấu tranh giành thắng lợi công điền được quân cấp cho toàn dân trong xã.

         Thời kỳ định hình làng xã lần thứ hai, sau nhiều năm gián đoạn do trận lũ, lụt năm 1787, mãi đến thế hệ thứ 7, thứ 8 trở đi, khi đời sống đã ổn định, các ông trong họ đã ra sức dùi mài kinh sử, tìm học các danh nho trong vùng như: Hoàng Kỳ Nho (ông Đồ Giai), Tiến sỹ Doãn Uẩn, Tuần vũ Nguyễn Túc, Cử nhân Nguyễn Quốc Trình, Tiến sỹ Đỗ Phát... Nhưng việc thi cử của các ông trong họ ta không giành được học vị cao. Các ông Cao Đức Trứ, Cao Đức Bằng, nổi tiếng thông minh, hiếu học, nhưng thi cử cũng không thành đạt, gia phả họ còn ghi về ông Cao Đức Ý (đời thứ 8) như sau: “Học hành sâu rộng, theo đuổi trường thi không mỏi”, khi tới 53 tuổi ông còn mời Hoàng giáp Phạm Văn Nghị về thiết trướng tại nhà (1869). Phụ, tử cùng học một thầy (con là Cao Đức Dậu), năm 60 tuổi ông đi thi cũng chỉ lọt vào vòng 3 (Nhị trường). Các thế hệ tiếp theo như ông: Cao Ngọc Hướng, Cao Ngọc Cư, Cao Đức Cường, Cao Như Sơn, Cao Đức Thắng, Cao Đức Hàm, Cao Đức Dậu... đều nỗ lực học tập, theo đuổi thi cử miệt mài, không phải là không có chí, âu cũng là học tài, thi phận vậy. Các ông đã phải từ vốn kiến thức đó chuyển qua hướng khác để lập thân, lập nghiệp như: làm thuốc, dậy học, tham gia chính quyền địa phương, nhiều ông theo Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đánh giặc (1858 - 1873), được sắc phong Thất phẩm Thiên hộ, Bát phẩm Bá hộ. Nhiều ông nhờ vốn kiến thức văn hóa và có quân công được cải bổ Văn giai như ông: Cao Như Sơn (đời thứ 9) làm Thông phán Cao Bằng, Kinh lịch Mỹ Đức; Cao Đức Thắng (đời thứ 9) làm Hiệp tá Bộ Lễ ở tại kinh đô Huế; ông Cao Ngọc Cư lên Cao Bằng dậy học, sau được bổ nhiệm làm Huấn đạo châu Thạch An.

           Thế kỷ XX nền giáo dục dần dần thay đổi, trong họ ta chuyển biến chậm chạp, vẫn theo Nho học, cốt có ít chữ thánh hiền để giữ gìn luân lý, kỷ cương của đời trước. Mãi đến thập niên 30, 40 mới có một số ít theo học trường Pháp - Việt, bậc Tiểu học, duy có ông Cao Như Đãng (đời thứ 10, Giáp phái) học tới Đệ Nhị Trung học phổ thông, còn lại đa số thất học.

     4 -  Thời kỳ từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.

          Sau khi phát xít Nhật hất cẳng Pháp chiếm toàn bộ Đông Dương, chúng bắt dân ta nhổ lúa để trồng đay và vơ vét lương thực dùng cho quân sự, nên đã gây ra nạn đói đau thương cho cả nước ta vào đầu năm Ất Dậu (1945). Họ ta cũng bị chết đói khoảng hơn 150 người, 19 gia đình không còn thừa tự. Do đời sống quá khó khăn nên trước và sau năm 1945 đã có khoảng 30 phần trăm số dân trong họ phải đi lập nghiệp ở những nơi khác như: miền Nam, Lào Cai, Hải Phòng, Yên Bái, Thái Nguyên…

          Từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhiều người và các gia đình trong họ đã trực tiếp tham gia các công việc của Cách mạng như: tuyên truyền vận động cho Cách mạng, nuôi dấu cán bộ, ủng hộ tiền, lương thực, thực phẩm, đấu tranh với lực lượng phản động. Khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 tham gia đi giành chính quyền rồi tham gia vào chính quyền hoặc các tổ chức Cách mạng ở địa phương và sau đó là tham gia kháng chiến đánh Pháp như: ông Cao Xuân Hạ (Ất phái) năm 1945 làm Bí thư Việt Minh xã, năm 1946 làm Chủ tịch UBHC Kháng chiến xã (được Nhà nước công nhận là cán bộ hoạt động trước Cách mạng tháng 8 năm 1945); ông Cao Bỉnh Uân (Giáp phái)  được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng Cộng sản xã Hoành Nha, trực tiếp làm Chủ tịch Hội Liên Việt; ông Cao Ngọc Bội (Nhâm phái) Chi ủy Chi bộ xã; ông Cao Trần Hào (Đinh phái) Xã đội trưởng; ông Cao Văn Hoàn (Nhâm phái), Uỷ viên Văn xã; ông Cao Trần Quýnh (cành Thứ) Xã đội trưởng; ông Cao Trần Đinh (cành Thứ) Bí thư Đoàn thanh niên xã; ông Cao Văn Thíu (Giáp phái) Đội trưởng du kích, hy sinh trong chiến đấu; ông Cao Ngọc Hòa (Ất phái) Chính trị viên Xã đội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt; ông Cao Văn Khánh (Nhâm phái) Xã đội phó (sau này làm Bí thư Đảng ủy xã) và nhiều ông khác.v.v. Nhiều ông tham gia công an, quân đội ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong kháng chiến đánh Pháp như các ông: Cao Xuân Thủy (Ất phái), Cao Trần Cao (cành Thứ), Cao Quang Thạnh (Ất phái), Cao Trung Ngọ (Ất phái), Cao Văn Lưu (Ất phái), Cao Văn Mai (Ất phái) và nhiều ông khác .v.v. Phát huy truyền thống cách mạng nhiều người trong họ lại tiếp tục lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Trải qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhiều người đã chiến đấu dũng cảm hy sinh xương máu, trong đó có khoảng 40 liệt sỹ và 80 thương binh. Nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong quân đội, được phong quân hàm cấp Tá. Nhiều người đã được nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương các loại. Trong họ có 4 bà được nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

           Sau hoà bình lập lại nhiều gia đình trong họ lại rời quê hương đi khai cơ lập nghiệp ở những vùng đất mới để phát triển kinh tế gia đình như ra xã Giao Thiện, xã Giao Lạc, xã Bạch Long... hay tới nơi xa như Lào Cai... Đất nước thống nhất nhiều gia đình lại di cư vào sinh sống ở một số tỉnh phía Nam. Đất nước hơn 30 năm đổi mới, đời sống mọi mặt của các gia đình trong họ từng bước được nâng cao. Về kinh tế hầu như không còn hộ đói nghèo, nhiều gia đình đã khá giả, có tích lũy, xây dựng được nhà cửa khang trang, sắm sửa nhiều vật dụng có giá trị. Nhiều người trong họ đã thành lập được công ty, doanh nghiệp làm ăn phát đạt, hiệu quả. Cũng nhờ đời sống kinh tế phát triển nên con cháu trong họ có điều kiện báo đáp công ơn tổ tiên như đóng góp đầu tư xây dựng sửa chữa nâng cấp từ đường, lăng mộ của dòng họ, của phái, của chi và mua sắm các đồ thờ cúng... Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội đã đưa một phần con cháu của dòng họ đi làm ăn xa quê, nhiều người đã định cư ở lại các thành phố hay các nơi khác trong nước và nước ngoài, xu hướng đó làm giảm đi số người còn lại ở quê nhà.

          Sự nghiệp học hành của con cháu trong họ ngày càng phát triển, luôn tiến kịp với xu thế chung của xã hội và từ lâu đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến. Tính đến nay đã có khoảng 300 người có bằng đại học và nhiều người có bằng Thạc sỹ, Tiến sỹ trong đó 2 người là Phó Giáo sư. Có những gia đình cả bố con đều là Tiến sỹ, Kỹ sư, Cử nhân có gia đình 3 thế hệ có tới 20 người có trình độ đại học và trên đại học... Họ đã thành lập được quỹ Khuyến học để động viên khen thưởng thường xuyên hàng năm cho con cháu trong họ. Hội Khuyến học tỉnh Nam Định 3 năm liền (2016 - 2017, 2017 - 2018, 2018 - 2019) đã vinh danh dòng họ Cao Trần, Giao Tiến là “Dòng họ học tập”.

          Văn hóa tâm linh báo đáp tổ tiên như phục dựng lại được các đội tế nam, tế nữ cùng với đầu tư trang phục, đồ tế; đáp ứng tốt cho việc tế tổ hàng năm, các đám hiếu trong họ và đã có nhiều lần tham gia tế tổ ở Diễn Châu, Nghệ An, tổ Trần Nguyên Hãn ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Tổ chức việc giỗ tổ hàng năm (năm chẵn có tổ chức tế), ngày Lễ, Tết và ngày mồng 1 đầu tháng. Tham gia Lễ hội của xã. Duy trì truyền thống Mừng thọ cho những người trong họ tới tuổi 60, 70, 80, 90... vào dịp Tết Nguyên đán. Những người trong họ làm ăn xa quê cũng đã tập hợp tổ chức thành các Chi nhánh dòng họ như ở: Hà Nội, Hải Phòng, Yên Bái, Lào Cai, Vũng Tàu, Bạch Long, Giao Tân, Giao Thiện..., động viên, thăm hỏi, giúp đỡ nhau, tổ chức mừng thọ người cao tuổi, khuyến học, hướng con cháu về cội nguồn, giáo dục truyền thống, tích cực tham gia đóng góp vào các công việc của dòng họ; nhiều chi nhánh còn tổ chức giỗ Tổ vào ngày 18 tháng Giêng. Từ khi kết nối được với dòng họ Trần Pháp Độ, Nghệ An và dòng họ

Trần Nguyên Hãn, Việt Nam. Các bên thường xuyên qua lại giao lưu thăm viếng, học hỏi, trao đổi thông tin và tham gia vào các hoạt động của dòng họ như: xây dựng khánh thành nhà thờ, giỗ tổ, tế tổ, hội nghị, hội thảo, Ban liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn... Năm 2008 con cháu họ Cao Trần, Giao Tiến tiến cúng trên 80 triệu đồng xây dựng từ đường chi tổ Phúc Quảng ở xã Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An cùng chuông đồng và đồ thờ trị giá 40 triệu đồng. Tiến cúng tiền mua kiệu đền thờ Trần Nguyên Hãn ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc, đóng góp kinh phí các dịp tế tổ và quỹ hoạt động của dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam khoảng trên 50 triệu đồng. Năm 2012 Đại hội đại biểu dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, lần thứ nhất, nhiệm kỳ I cụ Cao Văn Bốn là thành viên Hội đồng trưởng lão, cùng 4 thành viên họ Cao Trần tham gia Thường trực Ban Liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam. Năm 2017 Ban Liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn vinh danh họ Cao Trần, Giao Tiến là: “Tộc họ tinh hoa”                  

           Họ Cao Trần đã có hơn 330 năm trên đất ấp Hòe Nha, sau là xã Hoành Nha và nay là xã Giao Tiến. Các thế hệ của dòng họ đều luôn có ý thức ghi chép gia phả truyền lại cho đời sau để biết về nguồn gốc, về sự nghiệp và truyền thống tốt đẹp của dòng họ. Dù ở bất kỳ thời điểm nào và hoàn cảnh nào của lịch sử, các thế hệ của dòng họ Cao Trần cũng đều có những đóng góp công sức xứng đáng vào công cuộc xây dựng, phát triển dòng họ và quê hương, đất nước.

        5 -  Xây dựng từ đường họ và lăng mộ tổ.

            Theo câu đối ghi ở từ đường (nhà thờ), thì từ đường họ Cao Trần, Giao Tiến được xây dựng vào đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa (1681- 1705), có thể vào những năm cuối của niên hiệu Chính Hoà.

            Năm 1787 sau một trận lũ lớn, sông Hồng đổi dòng đổ thẳng ra biển mở ra cửa Ba Lạt mới. Thiên tai nặng nề toàn xã lại phải tập trung xây dựng lại lần thứ hai. Thời kỳ này từ đường họ cũng phải di chuyển về đất mới ở Cựu Thượng. Tiếp theo lại chuyển về Thổ Nện, nay là thôn Bảo Thắng.

            Năm vua Tự Đức thứ 26, 27 (1873 - 1874) từ đường họ chuyển về vị trí hiện nay Xóm 8 Quyết Tiến, nay là Xón 4 Giao Tiến (thôn Cộng Hoà cũ), đây là khu đất của cành Trưởng. Ông Cao Đăng Phong, ông Cao Danh Quán (đời thứ 7, Giáp phái) cúng tiền và tổ chức huy động tài lực của cả dòng họ xây dựng thành công nên từ đường khang trang, hai ông còn cúng vào 2 bức nghi môn bên phái và bên trái từ đường (ngôi từ đường này đã qua trùng tu nhiều lần song vẫn còn lại di tích 3 gian bái đường đến năm 2012). Sau vụ Tam trưng điền án thắng lợi, họ Cao ta được xã cấp cho 2,2 sào đất để làm từ đường ở khu vực Quán May, đầu thôn Cộng Hòa cũ. Mảnh đất này chưa kịp sử dụng cải cách ruộng đất năm 1956 đã bị thu lại chia cho dân.

           Từ đường họ được trùng tu tôn tạo lần thứ nhất là thay nhà lợp rạ bằng nhà xây do ông Cao Ngọc Viện (đời thứ 8, Giáp phái) tổ chức. Trùng tu tôn tạo lần thứ hai do ông Cao Đức Bằng (đời thứ 8, Ất phái) tổ chức và  ông cúng bức nghi môn ở gian giữa từ đường. Sửa chữa trùng tu lần thứ ba vào đầu thế kỷ XX, do ông Cao Đức Vận (đời thứ 9, Ất phái) phụ trách. Sửa chữa trùng tu lần thứ tư do ông Cao Văn Huỳnh (đời thứ 9, Tân phái) phụ trách. Cũng vào thời gian này phần mộ Thái tổ Vô Ý được chuyển về sân từ đường họ. Vào những năm 70, 80  thế kỷ XX theo quy hoạch chung của xã Giao Tiến họ ta đã tổ chức quy tập phần mộ tổ tiên từ đời thứ 2 đến đời thứ 6 xây dựng thành khu lăng tại nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

           Năm 1989 từ đường họ được sửa chữa trùng tu với sự đóng góp công sức của con cháu trong dòng họ do ông Tôn trưởng Cao Xuân Thiệu (đời thứ 10, Giáp phái), ông Cao Trần Hào (đời thứ 10, Đinh phái) và ông Cao Văn Bốn (đời thứ 10, cành Thứ) phụ trách. Năm 1996 các ông kể trên cùng với con cháu trong họ đã tổ chức sửa sang, tôn tạo lại khu lăng mộ tổ từ đời thứ 2 đến đời thứ 6 và xây dựng đài tưởng niệm, bia lịch kỷ công ở nghĩa trang Bách Linh. Đây là nơi an nghỉ ngàn thu của tiền nhân, công trình do ông Cao Uy Tín (đời thứ 11, Tân phái) thiết kế và chỉ đạo thi công.

           Năm 2012 đã bỏ từ đường cũ, làm từ đường mới trên nền đất cũ theo kiểu cuốn vòm, kết cấu bằng gạch đỏ, vữa xi măng. Phần khung gỗ của từ đường cũ được dựng lại bên cạnh từ đường mới để làm nhà lưu niệm và nơi hội họp. Ông Cao Văn Hưu, Tôn trưởng (đời thứ 10, Tân phái); ông Cao Văn Bốn, Trưởng ban Lễ tiết (đời thứ 10, cành Thứ) phụ trách, cùng với sự tham gia đóng góp của cả dòng họ về công sức và tiền của. Năm 2012 sau khi xây dựng xong từ đường mới, một lần nữa tôn tạo tu sửa lại khu lăng mộ tổ ở nghĩa trang Bách Linh khang trang, đẹp đẽ.

          Từ đường chính của dòng họ (còn gọi là nhà thờ họ Cả hay nhà thờ Đại tôn) là nơi thờ tổ từ đời thứ 1 đến đời thứ 5 (riêng phái Trưởng đến đời thứ 6). Từ đường còn là nơi tổ chức tế, giỗ tổ hàng năm, mừng thọ người cao tuổi trong họ, cũng là nơi để bàn việc họ và hội tụ con cháu gần xa.

TRÍCH DẪN PHẢ HỆ HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN.                                     

                                  (Từ đời thứ 1 đến đời thứ 7.

ĐỜI THỨ NHẤT

  Thái tổ Cao Quý Công húy Bong, tự Vô Ý

     Người sáng nghiệp, khai cơ dòng họ Cao Trần,

          xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

   Ngày giỗ 18 tháng Giêng (không rõ năm sinh, năm mất).

   Mộ được chuyển về an táng tại sân từ đường họ Cả, Xóm 4 Giao Tiến (trước à Xóm 8 Quyết Tiến, thôn Cộng Hoà cũ).

 Thái tổ húy Bong (có bản dịch là Bông) gốc họ Trần, ở vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Năm Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), Thái tổ đưa người con trai thứ hai húy Căn, tự Công Bật đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao.

  Nguyên nhân Thái tổ chuyển cư từ châu Ái đến lập nghiệp ở ấp Hòe Nha và đổi từ họ Trần sang họ Cao đến nay vẫn đang tiếp tục tìm hiểu.                                                                    

 Thái tổ là Người sáng nghiệp, khai cơ ra dòng họ Cao Trần, xã Giao Tiến bắt đầu từ đây.

         Bà Thái tổ Hoàng Thị Nhất nương hiệu Từ Tín.

   Ngày giỗ:   29 - 9 (không rõ năm sinh, năm mất, mộ ở quê cũ).

   Ông bà sinh được:  3 con trai và 4 con gái.

          Ba con trai:

- Trưởng tự Chân Tính, tập tước Bình Luận Công, mất sớm mộ ở quê cũ, chưa lập gia đình, ngày giỗ:  19 - 8.

- Thứ hai huý Căn, tự Công Bật, tập tước Dự Nghĩa Công, theo Thái tổ ra lập nghiệp ở ấp Hoè Nha.

- Thứ ba tự Hiếu Lương, mất sớm mộ ở quê cũ, ngày giỗ:  23 - 8.

        Bốn con gái:

             - Thứ nhất hiệu Từ Thanh, tục gọi là bà Độ, ngày giỗ:  3 - 7.

             - Thứ hai hiệu Từ Tại, ngày giỗ:  15 - 9.

             - Thứ ba hiệu Từ Minh, tục gọi là bà Thọ, ngày giỗ:  24 - 8.

             - Thứ tư hiệu Tiên Hoa Nương, tục gọi là bà Triều Hữu,

ngày giỗ:  4 - 2.

          Thái tổ cùng bà và các con trai không rõ sự thể đương thời như thế nào? chỉ được gia phả ghi lại như ở trên. Riêng 4 con gái của Tổ về gia đình và phần mộ cũng đều không rõ ràng.

 

                   ĐỜI THỨ HAI

 

     Thái tôn Cao Quý Công húy Căn, tự Công Bật, thuỵ viết Phúc Hậu.

        Ngày giỗ:   4 - 10.

           Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

  Thái tôn Công Bật là con trai thứ hai của Thái tổ Vô Ý, được tập tước Dự Nghĩa Công. Năm Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), Tổ theo cha đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao.

Năm Quý Tỵ (1713), đời Vua Lê Dụ Tông (1705 - 1728), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 (1705 - 1719), Tổ quy hậu Phật ở chùa Hưng Long thôn Chính. Năm Mậu Tuất (1718) niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14, Tổ quy hậu Phật ở chùa Hưng An thôn Thượng (ghi nhận việc phát tâm công đức của Tổ với chùa Hưng Long, chùa Hưng An hai chùa đã đặt tượng Tổ để thờ hậu Phật và được lưu giữ mãi cho đến ngày nay. Đầu thế kỷ XXI hai chùa đã nâng cấp làm lại tượng Tổ mới khang trang hơn). Tổ đã thực hiện được ý cha là sâu rễ, bền gốc ở nơi quê mới, làm ăn sinh sống lâu dài cùng với các dòng họ khác, lúc bấy giờ ấp Hòe Nha là vùng đất mới, dân cư còn thưa thớt. Tổ lấy 3 bà và sinh ra đông con nhiều cháu để phát triển dòng họ.

Họ Cao Trần, Giao Tiến bắt đầu từ Thái tôn Công Bật ngày càng phát triển và thịnh vượng trên vùng quê mới.

Bà Doãn Thị hàng Tam, hiệu Từ Nhân.

Ngày giỗ:    6 - 11.

Mộ quy lăng cùng với tổ ông.

Bà là con gái thứ ba họ Doãn, quê ở xã Hoành Lộ.

Ông bà sinh được: 2 con trai và 1con gái.

Hai con trai:

                 - Trưởng huý Diệu, tự Trung Trực, mất sớm,

                    ngày giỗ:  5 - 7.

                 - Thứ hai húy Sâm, tự Công Cái.

Con gái:  

          - Hiệu Từ Hạnh, tục gọi là bà Sinh, ngày giỗ:  16 - 6.

Bà hai Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Duyên.

Ngày giỗ:  19 - 7.

Mộ không rõ ở đâu.

Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

Hai con trai:

                 - Trưởng húy Lộc, tự Công Tuyển.

                 - Thứ hai húy Lợi, đổi là Công Lại, tục gọi là ông Thâu.

Con gái:  

          - Thị Lựu, hiệu Từ Nghiêm, tục gọi là bà Bạ Liêu,

             ngày giỗ:  17 - 4

Bà ba Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Hiền.

Ngày giỗ:   23 - 8.

Mộ không rõ ở đâu.

Ông bà sinh được: 2 con trai, 1 con gái.

Hai con trai:

                 - Huý Nhĩ, đổi là Toại; huý…, cả 2 mất sớm.

Con gái: 

          - Hiệu Diệu Tư, tục gọi là bà Vãng, ngày giỗ: 15 - 1

 

                      ĐỜI THỨ BA

 

  CÀNH TRƯỞNG

 

  3. 1.1 -      Cao Quý Công húy Sâm,

                      tự Công Cái, thuỵ Giảng Vũ.

Ngày giỗ:    5 - 12.

Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

Ông là con trai thứ hai tổ Công Bật, tục gọi là cụ Tri. Xuất thân làm Trùm trưởng giáp sau thăng chức Tri sự.

Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Trang.

Ngày giỗ:    9 - 7.

Mộ quy lăng cùng với ông.

Bà quy hậu phật chùa Hưng An, thôn Thượng.

Ông bà sinh được: 2 con trai, 3 con gái, nuôi 1 con trai.

Hai con trai:  

                                 - Trưởng là Bá Hân, tự Huệ Phương.

                                 - Thứ hai là Trọng Viêm.

         Con trai nuôi:

    - Húy là Khoái, tự Hiếu Điền, mất sớm.

Ba con gái:    

          - Thị Phi, hiệu Từ Thục, tục gọi là bà Bạ.

          - Thị Ổn, hiệu Từ Quý, tục gọi là bà Sở Khoản.

          - Thị Ánh, hiệu Nhân Hậu, đạo hiệu Huyền Tiên, tục gọi

 là bà Sự Ly Kỳ (làm phù thủy).

          Bà hai Lê Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Nghiêm.

Ngày giỗ:    25 -  5.  Mộ không rõ ở đâu.

Bà là người ở xã Hoành Tứ. Bà quy hậu phật chùa Hưng Long, thôn Chính. Bà không có con.

 

                     ĐỜI THỨ TƯ CÀNH TRƯỞNG

   4. 1.1 -      Cao Quý Công húy Bá Hân, tự Huệ Phương, thuỵ viết Đạt Đạo.            

 Ngày giỗ:    24 - 1. 

 Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

   Ông là con trai trưởng cụ Công Cái. Đương thời ông làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã sau làm Tri sự điện tiền.

   Bà Vũ Thị hàng Nhất húy Chinh, hiệu Trường Đức.

          Ngày giỗ:    29 -  3.       Mộ quy lăng cùng với ông.

Bà là con gái cụ Điện Quách họ Vũ.

   Ông bà sinh được: 6 con trai và 4 con gái.

   Sáu con trai: 

                            - Trưởng húy Phác, tự Bá Tuân.

                            - Thứ hai húy Ngụy, đổi là Trọng Chuân.

                            - Thứ ba húy Tỵ, đổi là Trọng Cẩn.

                            - Thứ tư húy Tý, tự Trọng Thuyên.

                            - Thứ năm húy Tuất, tự Trọng Quang.

                            - Thứ sáu húy Thục, tự Thời Mại.

  Bốn con gái:

        - Thị Nghi, hiệu Đoan Thuận, tục gọi là bà Điện Sự.

        - Thị Nghĩ, hiệu Diệu Tư, tục gọi là bà Sự Đảng hai.

        - Thị Cáy, hiệu Từ Quang, tục gọi là bà Tú Dương.

                - Thị Soạn, hiệu Từ Minh, lấy ông ở xã Lãng Lăng (nay là xã Xuân Đài), tục gọi là bà Tú Kính.

 

                    ĐỜI THỨ NĂM CÀNH TRƯỞNG

 5. 1.1 -       Cao Quý Công húy Phác, tự Bá Tuân, thụy Trung Chính.

 Ngày giỗ:    23 -  4. 

 Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

   Ông là con trai trưởng cụ Huệ Phương. Đương thời làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã sau làm Thập lý hầu.

   Khi đương chức, xã ta bị giặc Mèo (Miêu tặc) đến quấy phá cướp bóc, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn giặc cướp. Sau 7 ngày, đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông có tinh thần trách nhiệm cao, vì nghĩa quên mình, nêu tấm gương tiêu biểu trước nhân dân. Ông mất đi nhưng tiếng thơm còn mãi, con cháu phồn thịnh đời đời phát triển cũng nhờ nền nhân đức kế thừa (lới án của Cao Vĩnh Phúc).

    Hoàng Bá Thị húy Giáng, hiệu Đoan Chất.

Ngày giỗ:    4 - 7.    Mộ quy lăng cùng với ông.

 Ông bà sinh được: 6 con trai và 2 con gái.

   Sáu con trai:

                        - Trưởng húy Dao, tự Đăng Dụng.

                        - Thứ hai húy Sỹ, tự Đức Mậu.

                        - Thứ ba húy Mòng, tự Đức Giản.

                        - Thứ tư húy Phúc, hiệu Đức Tuấn.

                        - Thứ năm húy Nghị, tự Đức Tú.

                        - Thứ sáu húy Ruyên, đổi là Đức Thiệu.

   Hai con gái: 

          - Thị Quyện, hiệu Từ Thận, tục gọi là bà Tổng Trực.

          - Thị Thái, hiệu Từ Hòa, tục gọi là bà Sự Sỹ.

 

                         ĐỜI THỨ SÁU

 CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ HAI (Ất phái)

     6. 1.2.2 -   Cao Nghiêm đường húy Sỹ,  tự Đức Mậu, hiệu Mẫn Trực.

 Sinh năm:   Tân Tỵ (1761), niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 22.

 Mất ngày:   1 - 8 năm Quý Tỵ (1833), Minh Mạng thứ 14, thọ 73 tuổi. Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

          Ông là con trai thứ hai cụ Bá Tuân. Triều Lê ông làm Cai hợp Thập

lý hầu, triều Nguyễn Gia Long làm Xã trưởng.

          Đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), sau biến cố Ba Lạt năm 1787, sông Hồng đổi cửa (còn gọi là Ba Lạt phá hội), làng xã định hình lần thứ hai, dân xã Trà Lũ, huyện Xuân Trường vượt sông Sò đến tranh chiếm cánh đồng bãi Phù sa, gần 500 mẫu ruộng của xã nhà. Với tư cách là Xã trưởng, ông đã cùng với các ông trong họ, trong xã đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực (theo Phù sa điền án có tất cả 19 người tham gia) đại diện cho toàn xã tham gia tố tụng vượt cấp lên tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế). Qua nhiều năm đấu tranh gian khổ kết thúc thắng lợi vào năm Gia Long thứ 13, Giáp Tuất (1814) đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà (xem tài liệu Tham khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, năm 2018). 

           Ông còn có nhiều đóng góp xây dựng các công trình văn hóa, xã hội của địa phương để lại cho đời sau như tổ chức quyên góp và chủ trì đúc chuông chùa Hưng An thôn Thượng (nay là Xóm 5,6 Quyết Tiến) vào năm Kỷ Sửu 1829. Văn bia chuông chùa Hưng An thôn Thượng là chứng tích (lời án tổ Biên tập thế phả họ, cháu Cao Xuân Thiệu kính ghi. Xem thêm tài liệu Tham khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, năm 2018).

      Vũ Thị hàng Tam húy Sính,

                                      hiệu Đoan Thục Nhu Nhân.

 Sinh năm:    Nhâm Thìn (1772), niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 33.

 Mất ngày:    6 - 10 - năm Tân Sửu (1841), thọ 70 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông. 

 Bà là con gái cụ Châu Huyên họ Vũ.

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 5 con gái.

   Bốn con trai:

                   - Trưởng húy Quyến, sau đổi là Đức Trứ.

                   - Thứ hai húy Thiệm, sau đổi là Đức Nhuận.

                   - Thứ ba húy Miên, sau đổi là Đức Trạch.

                   - Thứ tư húy Kiên, sau đổi là Đức Thịnh.

   Năm con gái:

   - Thị Phiếm, hiệu Thục Huệ, lấy ông Xã Điển họ Hoàng.

   - Thị Thông, lấy ông Hương Đạt họ Vũ.

   - Thị Thanh, hiệu Quang Thục, lấy ông Lý Sảnh họ Hoàng.

   - Thị Nhị, hiệu Cần Kiệm, lấy ông Đồ Đôn họ Phạm, Hoành Tứ.

   - Thị Thuyết, lấy ông Hiệp Thể họ Lê thôn Chính.

 

                         ĐỜI THỨ BẢY

  CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ HAI (Ất phái)

     7. 1.2.6 -        Cao Quý Công húy Đức Trứ,

                 tự Công Nhân, hiệu Văn Đạt Tiên Sinh.

         Sinh năm:  Đinh Mùi (1787), niên hiệu Lê Chiêu Thống năm thứ 1.

Mất ngày:   29 - 12 năm Giáp Ngọ (1834), niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (1820 - 1840), hưởng 48 tuổi.

Mộ quy lăng chi Trưởng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

   Ông là con trai trưởng cụ Đức Mậu, húy Quyến sau đổi là Đức Trứ. Ông thông minh, chữ viết tốt, theo thi thư không đạt, làm Phó Cai tổng lúc 20 tuổi. Khi đương chức ông cùng với cha là Cao Đức Mậu, cộng sự với các ông trong xã, tham gia vụ án: dân xã Trà Lũ, Xuân Trường tranh chiếm gần 500 mẫu ruộng ở cánh đồng bãi Phù sa. Đến năm Gia Long thứ 13, Giáp Tuất (1814) đã dành thắng lợi lấy được ruộng về cho dân xã nhà (xem tài liệu Tham khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, năm 2018).

Ông tham gia biên lập địa bạ xã Hoành Nha, hoàn thành năm Minh Mạng thứ 10 (1829), cùng với các ông: Lê Huy Tuấn (Cai tổng), Cao Đăng Phong (Lý trưởng), Cao Đức Nhuận (Thôn trưởng); Hương mục: Vũ Đình Lựu, Cao Đức Trứ, Lê Huy Bỉnh (theo tài liệu Địa bạ xã Hoành Nha).

          Ông viết Văn bia chuông chùa Hưng An, thôn Thượng năm Kỷ Sửu 1829 (xem tài liệu Tham khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần năm 2018).

         Bà Hoàng Thị húy Dừa, hiệu Trinh Ý Nhu Nhân.

 Mất ngày:     24 - 5, thọ 76 tuổi.  Mộ quy lăng cùng với  ông.

 Bà là con gái cụ Bạ Lĩnh họ Hoàng, thôn Thượng (thôn Cộng Hòa).

 Ông bà  sinh được: 4 con trai và 4 con gái.

   Bốn con trai:        

        - Trưởng là Đức Chí.

        - Thứ hai là Đức Bằng.

        - Thứ ba là Đức Thiệm.

        - Thứ tư là Đức Tộ, mất sớm.

   Bốn con gái:   

       - Thị Truyền, lấy ông Chánh Đồng họ Vũ, thôn Thượng.

       - Thị Thép, lấy ông Bá Đệ ở xã Hoành Tứ.

       - Thị Tú, lấy làm hai ông Chánh Đồng họ Vũ, thôn Thượng.

       - Thị Gang, mất sớm.

   Bà hai Nguyễn Thị húy Nhị, hiệu Hoa Phương.

   Ngày giỗ:   10 -  6.   Mộ quy lăng cùng ông. 

   Bà là con gái cụ Biện Tán họ Nguyễn ở xã Quất Lâm.                                                                                     Ông bà sinh được 1con trai:  Đức Nghị.

PHẦN THỨ HAI

 

      PHẢ HỆ PHÁI TỔ CAO ĐỨC THIỆM

                                     (PHẦN CHI TIẾT)

 

           1 - Từ Đời thứ 8 đến Đời thứ 15.

           2 - Chia thành 5 chi (đời thứ 9 phân Chi).

           3 - Cách ghi mã số:

                   - Cụm số thứ nhất chỉ thứ tự các Đời.

                   - Cụm số thứ hai chỉ thứ tự các Chi.

                   - Cụm số thứ ba chỉ thứ tự các Nhánh trong Chi

                              (đời thứ 10 phân Nhánh).

                   - Cụm số thứ tư chỉ thứ tự số người trong một Đời.

     

ĐỜI THỨ TÁM

       Bát đại Tổ Cao Công húy Đức Thiệm, hiệu Hoạt Tế Y Sỹ.

    Sinh năm:    Kỷ Mão (1819).

 Mất ngày:    3 - 12  năm Canh Thân (1860), hưởng 42 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

   Ông là con trai thứ ba tổ Cao Đức Trứ, làm Hương mục xã, tính thuận hòa giản dị. Bình sinh ông làm Thầy thuốc Đông y nổi tiếng, tinh thông  cả về mạch và châm cứu, là Lương mục bản xã. Sau khi ông qua đời mọi người đều tiếc tài của ông.

 Bà Lê Thị hàng Nhị húy Nguyện, hiệu Đoan Thành Nhụ Nhân.

    Sinh năm:    Giáp Thân (1824).

    Mất ngày:    21 - 7 năm Giáp Thìn (1904), thọ 81 tuổi.

    Mộ quy lăng cùng với ông.

    Bà là con gái cụ Chiêu Phổ họ Lê, thôn Chính.

    Ông bà sinh được: 4 con trai, 4 con gái và nuôi 1 con trai.

    Bốn con trai:

         - Trưởng Cao Đức Quảng, đổi là Đức Vận.

         - Thứ hai là Cao Đức Khóa.

         - Thứ ba Cao Đức Niệm, con nuôi tổ Cao Đức Bằng.  

         - Cao Đức Bồi, mất sớm.

    Con trai nuôi:

                      - Cao Đức Vang, quê ở Thái Bình.

    Bốn con gái:   

           - Trưởng Cao Thị Phương, lấy ông Lý Thuật họ Phạm, xã  Hoành Tam.

            - Thứ hai Cao Thị Vá, lấy ông Vũ Ruy Lý trưởng, thôn Trung.

           - Thứ ba Cao Thị Miên, lấy ông Nhất Uyển, xã Hoành Đông.

           - Thứ tư Cao Thị Xuyến, mất sớm. 

 

ĐỜI THỨ CHÍN

 

     9. 1.1 -    Cao Công húy Đức Vận,

              tự Tử Hội, hiệu Thanh Hòa Xử Sỹ.

Sinh ngày:    24 - 6 năm Nhâm Tý (1852).

Mất ngày:    20 - 5 năm Canh Ngọ (1930), thọ 79 tuổi).

Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Thiệm, huý Đức Quảng sau đổi là Đức Vận. Sinh thời thi đỗ Khóa sinh sau làm Suất đoàn xã, trong vùng có giặc nổi lên ông được cử chỉ huy khoảng 50 suất đinh canh giữ trong xã, đã bắt được 1 tên tướng giặc nộp lên cấp trên và xã ta được thưởng 1 vụ không phải nộp thuế. Ông phụ trách trùng tu sửa chữa từ đường họ Cả vào đầu thế kỷ XX.

         Bà Vũ Thị húy Phức, hiệu Anh Hương Nhụ Nhân.

          Sinh năm:    Ất Mão (1855).

Mất ngày:    8 - 5 năm Quý Dậu (1933), thọ 79 tuổi.

          Mộ quy lăng cùng với ông.    

Bà là con gái cụ Lý Huy họ Vũ ở giáp Giữa, thôn Thượng.

Ông bà sinh được: 5 con trai và 3 con gái.

          Năm con trai:

        - Trưởng là Cao Duy Tân.

        - Thứ hai là Cao Chi Tái.

        - Thứ ba là Cao Đức Bỉnh.

        - Thứ tư là Cao Đức Biểu.

        - Cao Viết Mô, mất sớm.

Ba con gái:     

 - Thứ nhất Cao Thị Tu, lấy ông Xã Bính họ Hoàng, thôn Thượng.

 - Thứ hai Cao Thị Tề, lấy ông Nho Khám họ Mai, thôn Chính.

 - Thứ ba Cao Thị Phê, lấy ông Hào Hưởng họ Trần, xã An Cư, huyện Xuân Trường.

     9. 2.2 -           Cao Công húy Đức Khóa,

         tự Khuyến Nông, hiệu Mỹ Tế Phủ Quân.

Sinh ngày:    9 - 1 năm Bính Thìn (1856).

          Mất ngày:    22 -  8 năm Quý Hợi (1923), thọ 68 tuổi.

Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

          Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Thiệm. Đương thời thi đỗ Khóa sinh và làm Suất đoàn xã.

Bà Hoàng Thị húy Hột, hiệu Từ Chính Nhụ Nhân.

Sinh năm:    Canh Thân (1860).

          Mất ngày:    17 - 12 năm Mậu Thìn (1928), thọ 69 tuổi.

          Mộ quy lăng cùng với ông.   

          Bà là con gái cụ Đội Cung họ Hoàng, thôn Thượng.

Ông bà sinh được: 5 con trai:

 - Trưởng là Cao Trung Đảng.

 - Thứ hai là Cao Trung Hứa.

 - Thứ ba là Cao Trung Kế.

 - Thứ tư là Cao Trung Thụy.

 - Thứ năm là Cao Trung Đang.

 9. 3.3 -       Cao Công húy Đức Niệm, tự Linh Đài, hiệu Đức Tế.

 Mất ngày:    28 - 8, hưởng 53 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm 5 Giao Tiến.

 Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Thiệm, làm con nuôi bác ruột là cụ Cao Đức Bằng. Bình sinh ông làm thuốc Đông y, tinh thông Y nghiệp.

    Tổ tỷ Vũ Thị húy Huyến, hiệu Đoan Lương.

   Mất ngày:    28 - 4, hưởng 51 tuổi.

   Mộ quy lăng cùng với ông.

   Bà là con gái cụ Đồ Xuân họ Vũ, thôn Chính.

   Ông bà sinh được: 2 con trai và 4 con gái.

   Hai con trai:

               - Trưởng là Cao Đức Vựng.

               - Thứ hai là Cao Đức Riễm.

   Bốn con gái:

               - Thứ nhất là Cao Thị Mèo, lấy ông Vũ Đức Ấm ở giáp Đông, thôn Thượng. Sinh được 2 con trai.

         - Thứ hai là Cao Thị Riệp, lấy chồng ngoài Bể. Sinh được 3

con trai và 1 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Thạch, Mất ngày 14 - 1.

               - Thứ tư là Cao Thị Ngõa, có chồng, mất sớm, ngày giỗ 14 - 4.

9. 4.4 -      Cao Công húy Đức Vang, hiệu Phúc Lương Phủ Quân.

Mất ngày:    20 -  3. 

Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

Ông là con trai nuôi cụ Cao Đức Thiệm là người họ Nguyễn quê gốc ở thôn Bình Cách, xã Đông Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

          Ông tham gia Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đi đánh giặc được cấp bằng Đội trưởng.

           (Năm 1950 ông Cao Văn Nghiêm là cháu có tìm về quê cũ nhưng gia đình anh em không còn ai sau đó đã rước chân hương em trai, em gái ông Đức Vang là Nguyễn Công Tự, Nguyễn Thị Hằng về bên quê mới ở xã Giao Tiến để phụng thờ).

         Bà Vũ Thị húy Cõn, hiệu Nho Chất Nhu Nhân.

         Mất ngày:    5 - 10.        

         Mộ quy lăng cùng với ông.

         Bà là con gái cụ Vũ Văn Sinh, thôn Chính.

         Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.

         Hai con trai:        - Trưởng là Cao Đức Lừng.

                      - Thứ hai là Cao Đức Lẫy.

         Ba con gái:   

                 - Thứ nhất là Cao Thị Chích, lấy ông Nguyễn Văn Đào, làng Hành Quán, huyện Nam Trực. Sinh được 1 con trai.

                - Thứ hai là Cao Thị Sẻ, lấy ông Nguyễn Văn Liên, thôn Thống Nhất. Sinh được 1 con trai.

                - Thứ ba là Cao Thị Chợ, lấy ông Doãn Văn Phương, thôn Thống Nhất. Sinh được 1 con trai.

ĐỜI THỨ MƯỜI

          A - CHI TRƯỞNG

10. 1.1.1 -   Cao Công húy Duy Tân,  tự Sử Dân, hiệu Đại Tế Phủ Quân.

    Sinh ngày:    26 - 10 năm Ất Hợi (1875).

    Mất ngày:    23 - 2 năm Canh Thìn (1940), thọ 66 tuổi.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

              Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Vận, làm Xã đê. Ông giúp đỡ những người đấu tranh vì quyền dân sinh (1932 - 1936) đó là đòi quân cấp ruộng công điền cho dân nhưng không thành. Khi xã có tổ chức cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo (ông Vũ Đức Âu, thôn Việt Dũng) ông tích cực ủng hộ. Ông tham gia Ban kiến thiết miếu thôn Thượng năm 1938 - 1940.

  Nhận đỡ đầu ông Đinh Ruy ở xã An Cư, Xuân Trường vào họ Cao.

       Bà Lưu Thị húy Hoan, hiệu Diệu Hỷ Nhụ Nhân.

         Sinh năm:    Canh Thìn (1880).

    Mất ngày:    11 - 4 năm Quý Mão (1963), thọ 84 tuổi.

    Mộ quy lăng cùng với ông. 

     Bà là con gái cụ Nhị trường Lưu Công Khuyến, xã Thanh Khiết, nay là xã Giao Yến.

    Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.

   Con trai:

                                - Cao Xuân Hạ.

   Bốn con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Phàn, lấy ông Lê Văn Chiễu, thôn Quyết

Tiến. Sinh được 3 con trai (trong đó có 2 là liệt sỹ) và 3 con gái. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu: “ Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

         - Thứ hai là Cao Thị Đỉnh, lấy ông Hoàng Văn Tịch, thôn Cộng

Hòa, nay là Xóm 4 Giao Tiến. Sinh được 3 con trai và 4 con gái.

                  - Thứ ba là Cao Thị Khương (mất sớm).

                  - Thứ tư là Cao Thị Sam (mất sớm, ngày 14 - 8).

    10. 1.2.2 -    Cao Đường húy Chi Tái,  hiệu Hiếu Mục Phủ Quân.

 Sinh ngày:    23 - 10 năm Quý Mùi (1883).

    Mất ngày:    30 - 1 năm Đinh Tỵ (1917), hưởng 35 tuổi.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

         Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Vận. Bình sinh ông làm Xã đê.

   Bà Bùi Thị húy Đễ, hiệu Từ Huệ.

    Sinh năm:    Ất Dậu (1885).

    Mất ngày:    5 - 2 năm Giáp Tuất (1934), hưởng 50 tuổi.

    Mộ quy lăng cùng với ông.

   Bà là con gái cụ Lý Duyên họ Bùi, xã Hiệt Củ nay là xã Giao Tân.

    Ông bà sinh được: 2 con trai và 2 con gái.

         Hai con trai:

                           - Trưởng là Cao Chi Ry.

                           - Thứ hai là Cao Chi Phạng.

         Hai con gái:

                   - Thứ nhất là Cao Thị Sỳ, lấy ông Hoàng Văn Huyên, thôn Cộng Hòa. Sinh được 5 con trai và 4 con gái.

                 - Thứ hai là Cao Thị Trung (mất sớm).

10. 1.3.3 -     Cao Công húy Đức Bỉnh,

                                tự Bát Tế, hiệu Tự Trọng.

    Sinh năm:    Kỷ Sửu (1889).

    Mất ngày:    2 - 11 năm Giáp Thân (1944), hưởng 56 tuổi.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

         Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Vận. Ông là người thông minh, văn hay chữ tốt, thông kinh sử, giỏi về lý số, có trí nhớ tuyệt vời và tài kể truyện. Sinh thời làm Hương nho và mở lớp dạy học ở nhà. Ông còn tinh thông cả nghề thuốc Đông y: kê đơn, bốc thuốc.

         Bà Phạm Thị húy Ngân, hiệu Hữu Kim.

    Mất ngày:    6 - 12 năm Bính Tý (1936).

    Mộ quy lăng cùng với ông.

     Bà là con gái cụ Lý Thạc họ Phạm, xã Đắc Sở, nay là xã Giao Châu.

    Ông bà sinh được: 2 con trai và 5 con gái.

  Hai con trai:    

                          - Trưởng là Cao Văn Cẩm (Văn Sáng).

                          - Thứ hai là Cao Văn Tiên (Khắc Vũ).

 Năm con gái:

 - Thứ nhất là Cao Thị Ân (mất sớm).

 - Thứ hai là Cao Thị Vân, lấy chồng ở Quảng Đông,Trung Quốc.

 - Thứ ba là Cao Thị Thừa, lấy chồng ở Quảng Tây,Trung Quốc.

 - Thứ tư là Cao Thị Cúc, lấy ông Trần Văn Thỉnh, thôn Phương Độ,

phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sinh được 1 con trai, 6 con gái.

     - Thứ năm, cho người bên đạo nuôi khi đó khoảng 2 tuổi, đến nay không có thông tin.

 

    10. 1.4.4 -     Cao Công húy  Đức Biểu, hiệu An Nhẫn.

    Sinh năm:    Nhâm Thìn (1892).

    Mất ngày:    7 -  4 năm Ất Dậu (1945), hưởng 54 tuổi.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

         Ông là con trai thứ tư cụ Cao Đức Vận. Sinh thời làm Hương nho.

          Trần Thị húy Cõn, hiệu Từ Hiền.

    Mất ngày:    14 - 1, thọ 80 tuổi. Mộ quy lăng cùng với ông.

    Bà là con gái cụ Viên Lễ họ Trần, xã Lạc Nghiệp, h. Xuân Trường.

    Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.

         Ba con trai:

            - Trưởng là Cao Văn Tri.

            - Thứ hai là Cao Văn Tởi.

            - Thứ ba là Cao Lương Sách.

  Ba con gái:

          - Thứ nhất là Cao Thị Ngắn, lấy ông Oánh ở tỉnh Thái Bình. Sinh được 5 con trai và 2 con gái.

          - Thứ hai là Cao Thị Tý (lớn), lấy ông Nguyễn Hành, thôn Quy Chính. Sinh được 2 con trai và 3 con gái.

          - Thứ ba là Cao Thị Tý (bé), lấy ông Tiên, xã Giao Thanh. Sinh được 2 con trai và 4 con gái.

      

B - CHI THỨ HAI

      

 10. 2.1.5 -      Cao Công húy  Trung Đảng, tự Bá Thuần.

     Sinh năm:   Quý Mùi (1883)

     Mất ngày:   17 - 3 năm Ất Dậu (1945), thọ 63 tuổi. 

   Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Khóa. Sinh ông thời làm Xã đê.

      Mai Thị hàng Tam húy Mép, hiệu Từ Thực.

     Mất ngày:   17 - 4.  Mộ quy lăng cùng với ông.

  Bà là con gái cụ Lý Khải họ Mai, thôn Quy Chính.

  Ông bà sinh được: 3 con  trai và 4 con gái.

   Ba con trai:   - Trưởng là Cao Trung Ngữ.

            - Thứ hai là Cao Trung Điều.

            - Thứ ba là Cao Trung Khiển (1922 - 21.7.1927).

         Bốn con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Lợn, mất ngày 26 - 7. Trước lấy ông Nguyễn Nghễ chết, sau lấy ông Xã Đĩnh, thôn Bảo Thắng. Sinh được 2 con trai, 1 con gái.

       - Thứ hai là Cao Thị Gà, lấy ông Nhương con ông Nhang Tường.

        - Thứ ba là Cao Thị Vịt, mất ngày 14 - 11, lấy ông Nguyễn Nhưỡng, thôn Quyết Tiến. Sinh được 4 con trai và 1 con gái.

        - Thứ tư là Cao Thị Thêm, lấy ông Vũ Tiễu, thôn Chiến Thắng. Sinh được 2 con trai và 2 con gái.

    10. 2.2.6 -      Cao Công húy Trung Hứa,  tự Đạo Lý, hiệu Cương Mẫn Phủ Quân.

    Mất ngày:    13 - 4.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

  Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Khóa. Sinh thời làm Xã tuần.

    Bà Phạm Thị húy Riểu, hiệu Diệu Nhu.

    Mất ngày:    29 - 2.       Mộ quy lăng cùng với ông.

    Bà là con gái cụ Đồ Ghi họ Phạm, thôn Quyết Tiến.

    Ông bà sinh được: 3 con trai và 6 con gái.

  Ba con trai:

                        - Trưởng là Cao Trung Tránh.

                        - Thứ hai là Cao Trung Thoại, mất sớm (26 - 4).

                        - Thứ ba là Cao Trung Ngọ.

   Sáu con gái:

     - Thứ nhất là Cao Thị Cóc, lấy ông Đội Liêm, thôn Chính.

     - Thứ hai là Cao Thị Trù, mất sớm (15 - 1).

     - Thứ ba là Cao Thị Vượn (tức Phượng), mất ngày 15 - 10 -

 2002, thọ 81 tuổi, lấy ông Hoàng Cang, thôn Toàn Thắng. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.

         - Thứ tư là Cao Thị Sói (tức Thái), sinh năm 1925, mất ngày 20 - 2 - 2003, thọ 79 tuổi, lấy ông Hoàng Viện thôn Quyết Tiến. Gia đình sinh sống ở thành phố Hải Phòng. Sinh được 2 con trai (1 là liệt sỹ).

         - Thứ năm là Cao Thị Sỏi, sinh năm 1926, mất ngày 13 - 1 - 2008, thọ 83 tuổi, lấy ông Phạm Duyệt, thôn Quyết Thắng. Sinh được 3 con trai và 2 con gái.

         - Thứ sáu là Cao Thị Tám, sinh năm 1933, mất ngày 24 - 6 - 1994, thọ 62 tuổi, lấy ông Nguyễn Đông, thôn Quyết Tiến. Gia đình ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sinh được 6 con trai (1 liệt sỹ), 4 con gái.

     10. 2.3.7 -        Cao Công húy Trung Kế, tự Minh Đạo, hiệu Thiện Trai Phủ Quân.

         Sinh năm:    Quý Tỵ (1893).

    Mất ngày:    23 - 12 năm Nhâm Thân (1932), hưởng 40 tuổi.

    Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

         Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Khóa. Ông tham gia tố tụng vụ tham nhũng công điền của bọn lý dịch kỳ hào trong xã năm 1932 cùng với các ông Cao Đức Thố, Vũ Trác vì quyền lợi của dân nhưng không thành, ông phẫn chí đi tòng Giáo (nhà thờ Giáp Nam, xã Giao Châu).

  Bà Vũ Thị húy Vấn.

   Mất ngày:    3 - 4 năm Ất Dậu (1945). Mộ quy lăng cùng với ông.

   Bà là con gái cụ Nhang Tường họ Vũ, thôn Quyết Thắng.

   Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.

  Hai con trai:

- Trưởng là Cao Văn Phủng, mất sớm.

- Thứ hai là Cao Văn Lũy, mất sớm.

  Ba con gái:

          - Thứ nhất là Cao Thị Ngan, mất ngày  20 - 8, lấy ông Vũ Soạn (chết), sinh được 1 con trai. Sau lấy ông Xã Đĩnh họ Lê thôn Bảo Thắng, sinh được 1 con trai và 1 con gái.

         - Thứ hai là Cao Thị Ngỗng, sinh năm 1922, mất ngày 12 - 1- 2008, thọ 87 tuổi, lấy ông Vũ Văn Hành, thôn Quyết Thắng. Sinh được 4 con trai và 2 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Két, lấy ông Mai Liên, thôn Đoàn Kết. Bà không có con.

 10. 2.4.8 -     Cao Công húy Trung Thụy,  tự Ý Đức, hiệu Trí Mạnh.

         Sinh năm:    Mậu Tuất (1898).

         Mất ngày:    4 - 7 năm Mậu Dần (1938), hưởng 41 tuổi.

         Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ tư cụ Cao Đức Khóa. Sinh thời năm 1920 đi lính khố xanh, đưa gia đình lên sinh sống tại phố Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Năm 1926 bỏ lính về làm ăn cùng gia đình. Năm 1938 bị bệnh và mất ở tỉnh Bắc Giang.

            Bà Lê Thị hàng Nhất húy Sửu, hiệu Đoan Hòa Nhụ Nhân.

   Sinh năm:    Tân Sửu (1901).

   Mất ngày:    1 - 3 năm Nhâm Tuất (1922), hưởng 22 tuổi.

   Mộ quy lăng cùng với ông,

   Bà là con gái cụ Xã Oánh họ Lê, thôn Thống Nhất, mất sớm.

     Bà kế Lê Thị húy Nhợi, hiệu Đoan Trang.

         Sinh năm:    Giáp Thìn (1904).

         Mất ngày:    26 - 1 năm Mậu Thìn (1988), thọ 85 tuổi.

         Mộ quy lăng cùng với ông.

         Bà là con gái cụ Trương Bổng họ Lê, thôn Thống Nhất.

   Ông bà sinh được 1 con trai:

                                      - Cao Hưng Lợi.

    10. 2.5.9 -   Cao Công húy Trung Đang, hiệu Thuần Hậu Phủ Quân.

         Sinh năm:    Tân Sửu (1901).

 Mất ngày:    10 - 1 năm Ất Tỵ (1965), thọ 65 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Ông là con trai thứ năm cụ Cao Đức Khóa.

         Bà Hoàng Thị húy Ngởn, hiệu Từ Năng Nhụ Nhân.

         Sinh năm:    Tân Sửu (1901).

 Mất ngày:    16 - 12 năm Ất Tỵ (1965), thọ 65 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Nhất Rĩnh họ Hoàng, thôn Cộng Hòa.

 Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.

 Ba con trai:     

   - Trưởng là Cao Văn Giới.

   - Thứ hai là Cao Văn Tìu, mất sớm.

   - Thứ ba là Cao Văn Tiu.

 Bốn con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Mứt, lấy ông Bạ ở thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Sinh được 2 con trai

         - Thứ hai là Cao Thị Kẹo, lấy ông Phạm Văn Thái, thôn Đoàn Kết. Sinh được 4 con trai và 3 con gái. Gia đình sinh sống ở xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

                  - Thứ ba là Cao Thị Bắc, lấy ông Vũ Văn Cường, thôn Thống Nhất. Sinh được 4 con trai, 4 con gái. Gia đình định cư ở thôn 5 xã Xuân Giao huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

          - Thứ tư là Cao Thị Hựu, mất ngày 18 - 3 - 2002. Trước lấy ông Phạm Văn Hạp, thôn Quyết Tiến, sau lấy ông Đoàn Văn Cầm, thôn Hà Cát, xã Hồng Thuận. Sinh được 2 con trai và 2 con gái.

 

        C - CHI THỨ BA

 

    10. 3.1.10 -    Cao Công húy Đức Vựng, hiệu Bình Thuận.

 Sinh năm:    Quý Tỵ (1893).

 Mất ngày:    5 - 12 năm Canh Tý (1960), thọ 68 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm 5 Giao Tiến.

          Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Niệm. Sinh thời ông làm ruộng và

buôn bán tơ tằm ở quê.

  Bà Vũ Thị húy Vịt (Cạc).

  Sinh năm:    Nhâm Thìn (1892).

  Mất ngày:    17 - 3 năm Giáp Dần (1974), thọ 83 tuổi.

  Mộ quy lăng cùng với ông.

  Là con gái cụ Lái Vạn họ Vũ, thôn Toàn Thắng, làm ruộng và buôn bán tơ tằm cùng với ông.

  Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.

  Bốn con trai:

  - Trưởng là Cao Thái Lai (1925 - 20.9.1937).

  - Thứ hai là Cao Văn Hào (1929 - 20.10.1939).

  - Thứ ba là Cao Xuân Phiêu.

  - Thứ tư là Cao Đức Lâm (1936 - 9.1943).

  Con gái:

                 - Cao Thị Lác, sinh năm 1923, mất ngày 4 - 8 - 1975.

 

 

 10. 3.2.11 -      Cao Công húy Đức Riễm.

  Mất ngày:    5 - 10.

  Mộ an táng ở xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

  Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Niệm. Khoảng năm 1945 ông đưa gia đình lên định cư làm ăn sinh sống bằng nông nghiệp, thôn Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

     Bà Vũ Thị húy Thoi.

    Ngày giỗ:    5 - 10.

 Năm 1948 chết mất tích, ngày giỗ lấy theo ngày giỗ của ông.

 Bà là con gái cụ Khóa Ngôn họ Vũ.

 Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

 Hai con trai:

             - Trưởng là Cao Văn An.

             - Thứ hai là Cao Văn Lan.

 Con gái:

               - Cao Thị Cún, mất sớm.

 

      D - CHI THỨ TƯ

 

    10. 4.1.12 -     Cao Công húy Đức Lừng, hiệu Phúc Lộc.

         Sinh năm:     Nhâm Ngọ (1882).

 Mất ngày:    24 - 6 năm Ất Dậu (1945), thọ 64 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Vang.

    Bà Hoàng Thị húy Na, hiệu Cần Kiệm.

    Sinh năm:     Bính Tuất (1886).

 Mất ngày:    19 - 4 năm Ất Dậu (1945), thọ 60 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Hoàng Trần, thôn Cộng Hòa.

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.

 Bốn con trai:  

   - Trưởng là Cao Ngọc Xướng.

   - Thứ hai là Cao Văn Nghiêm.

   - Thứ ba là Cao Văn Cu, mất sớm.

   - Thứ tư là Cao Đức Xương.

 Con gái:

           - Cao Thị Lê, Mất ngày 16 - 11, hưởng 18 tuổi. Lấy ông Nguyễn Lệ, thôn Trung, chưa kịp cưới, còn cách 2 ngày thì chết.

 

 

    10. 4.2.13 -      Cao Công húy Đức Lẫy, hiệu Hữu Thanh.

    Mất ngày:    27 - 5, hưởng 35 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

    Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Vang.

    Bà ...    Không rõ họ tên.

    Ông mất, bà xuất giá lấy ông Nguyễn Lĩnh, thôn Thống Nhất.

    Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

 Con trai:                   - Cao Văn Bò.

 Con gái:     - Cao Thị Man, lấy ông Vũ Văn Tuần, thôn Thượng.


ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT

        A - CHI TRƯỞNG

 

 11. 1.1.1 -    Cao Công húy Xuân Hạ, tự Lục Hà, hiệu Vạn Xuân.

   Sinh năm:    Mậu Thân (1908).

   Mất ngày:    10 - 5 năm Tân Mùi (1991), thọ 84 tuổi.

   Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

     Ông là con trai cụ Cao Duy Tân. Bình sinh 2 lần đi lính khố xanh. Lần đầu làm bếp cho Đoàn khảo sát Bản đồ của Pháp ở: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Đắk Lắk, Kon Tum, Gia Lai, Lào, Campuchia. Lần sau làm lính canh tô giới của Pháp ở Thượng Hải, Trung Quốc 3 năm. Năm 1940 về nước theo ông Vũ Đức Âu ở thôn Việt Dũng làm Cách mạng. Được bố trí ra làm Hội trưởng Hội ái hữu tương thân đã đấu tranh thắng lợi với bọn hào lý địa phương chia lại ruộng công điền cho toàn dân của xã. Năm 1944 được Cách mạng bố trí ra làm Phó lý Tam thôn để hoạt động. Năm 1945 Khởi nghĩa tham gia đi lấy đồn Lạc Quần, sau đó được cử làm Bí thư Việt minh xã. Năm 1946 làm Chủ tịch UBHC Kháng chiến xã Hoành Nha đến cuối năm 1947 chuyển làm công tác vận chuyển muối lên Khu 10 ở Tuyên Quang. Cuối năm 1949 đến năm 1951 cấp trên giao nhiệm vụ trở về địa phương hoạt động gây dựng cơ sở vùng địch hậu. Thời gian địch tạm chiếm là 2 năm 4 tháng, gia đình là nơi nuôi dấu cán bộ hoạt động bí mật. Năm 1952 - 1953 tổ chức nhân dân ủng hộ lương thực, thực phẩm cho Sư đoàn 320 về giải phóng Quê hương, mở Khu du kích và làm Trưởng ban Văn hóa xã. Năm 1954 - 1955 chung thuyền đi vận chuyển hàng cho nhà nước. Năm 1956 cải cách ruộng đất, bị quy sai lên địa chủ phải đi tù. Năm 1957 sửa sai, được trả về, gia đình lại đóng mới thuyền đi chở hàng hóa cho nhà nước. Năm 1960 vào HTX Thuyền buồm Nam Định. Năm 1961 đi khai hoang ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (nay là phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Nhà đất quê cũ, thôn Cộng Hòa, bán cho cháu là Cao Ngọc Cờn. Năm 1976 trở về quê cũ, được xã cấp đất ở mới cạnh Bưu điện Hoành Nha, năm 1977 làm nhà. Nhà đất này năm 2015 các con cháu của ông đã nhượng lại cho người khác, số tiền thu được dùng vào việc mua đất, làm nhà thờ tiến cúng cho họ (theo văn bản tiến cúng).

    Được Nhà nước công nhận là cán bộ hoạt động Cách mạng trước năm 1945 (Quyết định số: 772- QĐ/TƯ, ngày 19 - 7 - 1990, của Tỉnh Ủy Hà - Nam - Ninh). Khen thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, được hưởng phụ cấp hàng tháng và tiền hỗ trợ để làm nhà ở.

    Năm 1977 - 1981 ông tổ chức quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng mộ của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Bà Vũ Thị hàng Tam húy Cõn, hiệu Vạn Hương.

 Sinh năm:    Đinh Mùi (1907).

 Mất ngày:    16 - 2 năm Đinh Hợi (2007), thọ 101 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Lý Tỉnh họ Vũ, thôn Việt Dũng. Đương thời làm ăn buôn bán nhỏ ở quê, khai hoang ở tỉnh Lao Cai, làm nông nghiệp.

 Năm 1995 bà tổ chức cùng phái họ xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ và năm 1997 xây dựng nhà thờ của phái.

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.

 Bốn con trai:    

     - Trưởng là Cao Khắc Khoan.

     - Thứ hai là Cao Đăng Rong.

     - Thứ ba là Cao Quốc Hữu.

     - Thư tư là Cao Quốc Sủng.

 Con gái:   

                - Cao Thị Nga, sinh năm 1937, mất ngày 17 - 10 - 1962. Chồng là Phạm Văn Tuấn, thôn Cổ Rồng, xã Phương Công, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Sinh được 1 con trai.

 

 

 11. 1.2.2 -        Cao Đường húy Chi Di (Ry),

           tự Dưỡng Hòa, hiệu Hoà Lạc Phủ Quân.

 Sinh năm:     Đinh Mùi (1907).

 Mất ngày:    28 - 12 năm Canh Thân (1980), thọ 73 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

          Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi Tái. Đương thời năm 1930 - 1933 đi làm việc cho một số đồn điền ở Lào Cai và bị bắt làm lính khố xanh cho Pháp, khoảng trên 1 năm sau trốn trại về quê. Ở địa phương ông làm ăn sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.

     Bà Lê Thị húy Ống, hiệu Cần Mẫn.

 Sinh năm:    Đinh Mùi (1907).

 Mất ngày:    2 - 12 năm Tân Sửu (1961), hưởng 55 tuổi.

 Bà là con gái cụ Trưởng Mãn họ Lê, thôn Quyết Tiến. Đương thời làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ. Mộ quy lăng cùng với ông.

 Ông bà sinh được: 5 con trai và 3 con gái.

 Năm con trai:  

                        - Trưởng là Cao Ngọc Cờn (Chi Kiền).

             - Thứ hai là Cao Chi Thừng.

             - Thứ ba là Cao Viết Sự, mất sớm (7 tuổi).

             - Thứ tư là Cao Xuân Thế.

             - Thứ năm là Cao Văn Tộ, kế tự ông Chi Phạng.

 Ba con gái:

          - Thứ nhất là Cao Thị Bơ, sinh năm 1932, mất ngày 3 - 2 - 2011, thọ 80 tuổi. Lấy ông Nguyễn Tiêu (liệt sỹ), sinh được 1 con trai sau lấy ông Doãn Miễn ở Hùng Tiến, sinh được 2 con trai, 3 con gái.

          -  Cao Thị Đỏ, Cao Thị Đôi cả 2 mất sớm.

 

 

 11. 1.2.3 -    Cao Công húy Chi Phạng,

                            tự Cung Cần, hiệu Cẩn Xuất.

  Sinh năm:    Nhâm Tý (1912).

  Mất ngày:    26 - 6 năm Ất Dậu (1945), hưởng 34 tuổi.

  Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Chi Tái. Sinh thời làm ăn sinh sống ở quê. Khi cụ Cao Chi Tái mất, được bác ruột là Cao Duy Tân nhận làm con nuôi cho đi học chữ Hán và gây dựng gia đình 2 lần, nhưng không mấy thành công. Ông bà nhận Cao Văn Tộ là con anh trai làm kế tự.

          Bà ba Hoàng Thị húy Ngân.

  Bà là con gái cụ Nho Luyến họ Hoàng, thôn Thống Nhất. Ông mất, bà đi tái giá lấy người ở tỉnh Yên Bái.

  Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

  Kế tự:                     - Cao Văn Tộ.

  Con trai:                - Cao Danh Ái (1941 - 1945).

  Con gái:    - Cao Thị Nhân (1944 - 1945).

    11. 1.3.4 -  Cao Công húy Văn Cẩm (Văn Sáng).

Sinh ngày:    9 - 9  năm Nhâm Tuất (1922).

Mất ngày:    6 - 6 năm Tân Mão (2011), thọ 90 tuổi.

Mộ an táng ở nghĩa trang Pòm Máy Háu, thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

    Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Bỉnh. Năm 1936 theo người làng lên làm ăn ở ga Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Đang lúc gặp khó khăn thì gặp được cụ Lý Chỉn Siềng, người dân tộc Nhắng, nhận làm con nuôi và đưa về ở thôn Bản Vai, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Năm 1946 trở về quê làm ăn sinh sống. Năm 1948 đi làm công nhân bốc vác ở cảng Hải Phòng. Năm 1960 lại trở về quê. Năm 1963 địa phương có phong trào đưa dân đi khai hoang ở miền núi, ông đưa gia đình trở lại thôn Bản Vai, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai nơi trước đây ông được cụ Lý Chỉn Siềng nhận làm con nuôi. Ông lại được mẹ nuôi cùng gia đình giúp đỡ và định cư ở đây, sinh sống bằng nông nghiệp cho đến khi mất.

    Bà Hoàng Thị húy Oanh.

 Sinh năm:    Canh Ngọ (1930).

 Mất ngày:    1 - 11 năm Nhâm Thìn (2012), thọ 83 tuổi.

 Mộ ở nghĩa trang cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Trương Lự họ Hoàng, thôn Quy Chính. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

         Ông bà sinh được: 4 con trai và 4 con gái.

 Bốn con trai:   

    - Trưởng là Cao Bàng Đức.

    - Thứ hai là Cao Trọng Đạt.

    - Thứ ba là Cao Kỳ Lân.

    - Thứ tư là Cao Hoài Ngọc.

 Bốn con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Thu, sinh năm 1953, mất năm 1973. Chồng là Lương Văn Mìn, thôn Bản Vai, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào

 Cai. Sinh được 1 con gái.

                - Thứ hai là Cao Thị Dung, sinh năm 1957. Chồng là Lý Văn Hồ, sinh được 3 con trai và 1 con gái. Gia đình làm ruộng ở thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

                - Thứ ba là Cao Thị Thủy, sinh năm 1963. Chồng là Lý Văn Sèn, con ông Lý Văn Kèn. Sinh được 2 con trai và 2 con gái. Gia đình làm ruộng

ở xã Sảng Ma Sáo, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

               - Thứ tư là Cao Thị Hoa, sinh năm 1965. Là giáo viên Trường Tiểu học, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Nguyễn Văn Tảo, con ông Nguyễn Văn Tiêu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

 

 

    11. 1.3.5 -  Cao Công húy Văn Tiên (Khắc Vũ).

Sinh năm:    Bính Tý (1936).

         Mất ngày:    23 - 7 năm Tân Hợi (1971), hưởng 36 tuổi.

          Mộ an táng tại nghĩa trang xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

          Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Bỉnh, lớn lên đi làm con nuôi cụ ông người họ Nguyễn và cụ bà Hoàng Thị Tượng người công giáo ở Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình, đổi tên là Nguyễn Khắc Vũ. Năm 1954 ông theo gia đình bố mẹ nuôi vào miền Nam ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Gia đình làm ăn sinh sống bằng nông nghiệp.

         Bà Vũ Thị húy Huệ.

         Sinh năm:    Bính Tý (1936).

         Mất ngày:    21 - 9 năm Nhâm Thìn (2012), thọ 77 tuổi.

         Mộ an táng ở nghĩa trang cùng với ông.

         Bà quê gốc ở xã Giáo Lạc, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

         Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.

         Hai con trai:

                  - Trưởng là Cao Văn Hùng.

                  - Thứ hai là Cao Khắc Việt.

         Ba con gái:

                - Thứ nhất là Cao Thị Nga, sinh 1955, mất ngày 27 - 11- 1977.

                - Thứ hai là Cao Thị Mến sinh năm 1960. Chồng là Đỗ Đình Thà. Gia đình ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Sinh được 3 con trai.

        - Thứ ba là Cao Thị Xuân Hương, sinh năm 1967. Chồng là Trần Văn Khẩn, sinh được 2 con trai. Gia đình sinh sống ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

 

    11. 1.4.6 -      Cao Công húy Văn Tri,

                                            hiệu Lương Năng.

         Sinh năm:    Tân Hợi (1911).

         Mất ngày:    17 - 9 năm Giáp Thìn (1964), hưởng 54 tuổi.

         Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

          Ông là con trưởng cụ Cao Đức Biểu. Đương thời trước năm 1945 đi làm công nhân mỏ than Vàng Danh, tỉnh Quảng Ninh. Năm 1951 - 1954 làm công nhân ở cảng Hải Phòng. Sau đó về quê làm ruộng, có thời gian làm Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp.

    Bà Vũ Thị húy Tính, hiệu Diệu Tâm.

         Sinh năm:    Giáp Dần (1914).

 Mất ngày:    5 - 9 năm Giáp Thân (2004), thọ 91 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông. Bà là con gái cụ Xã Lam họ Vũ, thôn Việt Dũng. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

 Con trai:                  -  Cao Văn Quy.

   Ba con gái:

                 - Thứ nhất là Cao Thị Tâm (Ngọ), sinh năm 1950. Năm 1968 vào Quân đội ở chiến trường B1. Năm 1978 học Trung cấp Hoá ra làm ở Khoa Hoá nghiệm, BVQY 109, Quân khu 2, Thành phố Vĩnh Yên, cấp bậc Đại úy. Chồng là Lê Kim Kỷ, làm ở BVQY 109. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

           - Thứ hai là Cao Thị Nga, sinh năm 1955. Năm 1976 - 2006 làm công nhân Nhà máy dệt Nam Định. Chồng là Trần Văn Thịnh. Gia đình ở phường Năng Tĩnh, Thành phố Nam Định. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

          - Thứ ba là Cao Thị Nguyệt, sinh năm 1958. Chồng là Lê Văn

Thắng, con ông Lê Văn Đức, thôn Việt Dũng. Làm ăn sinh sống ở quê. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.

 

 

    11. 1.4.7 -    Cao Công húy Văn Tởi,

                              tự Phúc Thiện, hiệu Minh Quang.

 Sinh năm:    Giáp Dần (1914).

 Mất ngày:    12 - 5 năm Quý Hợi (1983), thọ 70 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Biểu. Đương thời trước năm 1945

đi làm ăn ở Lào Cai một thời gian, sau về quê làm ruộng và tham gia một số công tác trong kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1955 đưa gia đình ra làm ăn, sinh sống bằng nông nghiệp ở Xóm 27, xã Giao Thiện.

        Bà Nguyễn Thị húy Chút, tự Minh Tâm, hiệu Diệu Chắt.

 Sinh năm:    Quý Hợi (1923).

 Mất ngày:    12 - 5 năm Canh Dần (2010), thọ 88 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng ông. Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Tuần, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đương thời buôn bán nhỏ và làm nông nghiệp.

 Ông bà sinh được: 1 con trai, 6 con gái.

 Con trai:              - Cao Văn Tuấn, mất lúc 1 tuổi.

 Sáu con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Dần, sinh năm 1952, mất lúc 2 tuổi.

                - Thứ hai là Cao Thị Đông, sinh năm 1955. Chồng là Vũ Văn Tình, con ông Vũ Văn Tịch, Hùng Tiến. Từ năm 1973 - 2010 làm kế toán HTXNN, sau tham gia công tác Chi hội Nông dân, Chi hội Phụ nữ, Xóm 27. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia đình ở xã Giao Thiện.

                - Thứ ba là Cao Thị Phương, sinh năm 1958, mất lúc 3 tuổi.

                 - Thứ tư là Cao Thị Thiện, sinh năm 1961, lấy ông Đinh Văn Đỗ, xã Giao An, sinh được 1 con trai. Ông Đỗ mất, năm 1995 tái giá lấy ông Ngô Văn Quân, xã Giao Thiện, sinh được 2 con gái.

                - Thứ năm Cao Thị Duyên, sinh năm 1964, mất 19 - 1 - 2008. Chồng là Đinh Văn Năm, xã Giao An. Sinh được 2 con trai, 2 con gái.

                 - Thứ sáu là Cao Thị Nguyên, sinh năm 1966. Chồng là Trần Văn Đương, xã Giao Thiện. Sinh được 1 con trai và 2 con gái.

 

 

11. 1.4.8 -     Cao Công húy Lương Sách,

                                              hiệu Phúc Trường.

 Sinh năm:     Canh Ngọ (1930).

 Mất ngày:    16 -  7 năm Nhâm Thìn (2012), thọ 83 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

          Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Biểu. Năm 1943 sống với chị gái ở thành phố Hải Phòng. Năm 1946 về quê với gia đình. Năm 1951 - 1954 đi làm công nhân ở cảng Hải Phòng, sau đó vê quê làm nông nghiệp. Từ năm

1966  đưa gia đình ra định cư làm ăn, sinh sống ở đồng muối xã Bạch Long,

huyện Giao Thủy.  Năm 1977 - 1981 ông tham gia tổ chức quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ.

    Bà Vũ Thị húy Roan, hiệu Thuận Hiền.

 Sinh năm:    Bính Tý (1936).

 Mất ngày:    5 - 12 năm Ất Sửu (1985), hưởng 50 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng ông. Bà là con gái cụ Vũ Văn Nhự, thôn Việt Dũng. Đương thời làm nông nghiệp và làm muối.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

 Con trai:                 - Cao Văn Minh.

         Ba con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Liên, sinh năm 1964. Chồng là Lê Thường ở xã Giao Tiến. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia đình định cư và kinh doanh muối ở xã Bạch Long.

         - Thứ hai là Cao Thị Hòa, sinh năm 1970. Chồng là Phạm Văn Long, xã Giao Tiến. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia đình định cư ở xã Bạch Long.

         - Thứ ba là Cao Thị Hợp, sinh năm 1974. Chồng là Trần Xuân Bách, xã Giao Tiến. Sinh được 2 con trai và 1 con gái. Gia đình định cư  ở xã Bạch Long.

 

         B - CHI THỨ HAI  

        11. 2.1.9  -       Cao Công húy Trung Ngữ.

 Mất ngày:                            Mộ không rõ ở đâu.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Đảng. Ông bà chưa có con, ông mất sớm sau đó bà đi tái giá.

 11. 2.1.10 -        Cao Công húy Trung Điều.

 Mất ngày:    5 - 2.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Đảng.

  Bà Lê Thị húy Vân.

 Ông mất, bà tái giá đi lấy chồng khác.

  Ông bà sinh được 2 con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Cạc (Hợp). Chồng là Tiêu Văn Kiên, thôn Quyết Thắng. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.

         - Thứ hai là Cao Thị Nhuần. Chồng là Đỗ Văn Ruy, thôn Quy Chính. Sinh được 3 con trai.

      11. 2.2.11 -      Cao Công húy Trung Tránh.

 Mất năm:    Ất Dậu (1945).

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Hứa. Sinh thời làm Xã tuần.

    Hoàng Thị húy Soa.

Mất ngày:   7 - 8 năm Đinh Sửu (1997). Bình tro đặt tại chùa Đinh Thành, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.

 Bà là con gái cụ Lý Biều họ Hoàng, thôn Cộng Hòa. Năm 1954  bà đưa con trai vào làm ăn, sinh sống ở thành phố Sài Gòn.

    Ông bà sinh được 1 con trai:    - Cao Trung Chính.

  11. 2.2.12 -        Cao công húy Trung Ngọ.

 Sinh năm:    Canh Ngọ (1930).

 Mất ngày:    24 - 11 năm Quý Mùi (2003) thọ 74 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

       Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung Hứa. Năm 1947 khi mới 17 tuổi gia nhập bộ đội Vệ quốc tại Lào Cai (khi đó đang ở với chị gái là Cao Thị Thái), tham gia Kháng chiến đánh Pháp, đã từng chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ. Sau Hòa bình được đi học Trường Bổ túc Công Nông ở Đông Triều (học văn hóa và chuyên môn y tế). Sau về tiếp tục phục vụ trong quân đội với cấp hàm Thiếu úy. Năm 1966 chuyển ngành về công tác ở Phòng Lương thực huyện Xuân Thủy (nay là huyện Giao Thủy). Năm 1982 về nghỉ hưu ở quê, thôn Cộng Hòa. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba. Huy hiệu Chiến sỹ Điện Biên Phủ. Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Năm 1977 - 1981 ông tham gia tổ chức quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm 1992 ông hiến đất và tổ chức xây dựng nhà thờ của họ chi.

  Bà Phạm Thị húy Nhài hiệu Diệu Quế.

 Sinh năm:    Tân Mùi (1931).

 Mất ngày:    16 - 7 năm Canh Dần (2010), thọ 80 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông. Bà là con gái cụ Phạm Văn Thuận, thôn

Đoàn Kết. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 4 con gái.

 Bốn con trai:      - Trưởng là Cao Văn Trọng.

             - Thứ hai là Cao Văn Tôn.

             - Thứ ba là Cao Văn Kính.

             - Thứ tư là Cao Văn Tặng.

 Bốn con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Quý, sinh năm 1960. Chồng là Lê Văn Vinh, con ông Lê Văn Phóng xã Giao Châu. Sinh được 1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Số 10, Đặng Huy Liệu, P.Thống Nhất, Thành phố Nam Định.

         - Thứ hai là Cao Thị Hường, sinh năm 1965, mất ngày 18 - 4 - 2000. Chồng là Ngô Văn Đằng, con ông Ngô Văn Tiêm, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Sinh được 4 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Hương, sinh năm 1970. Chồng là Phạm Văn Vượng, con ông Phạm Văn Rợi, thôn Quy Chính. Sinh được 1 con trai và 2 con gái.

         - Thứ tư là Cao Thị Hoa, sinh năm 1971. Chồng là Cao Đình Tâm, con ông Cao Đình Tháp, xã Giao Phong. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở thành phố Vũng Tàu.

 11. 2.4.13 -     Cao Công húy Hưng Lợi, hiệu Phúc Lạc.

 Sinh năm:    Giáp Tý (1924).

 Mất ngày:    29 - 3 năm Giáp Thân (2004), thọ 81 tuổi.

 Mộ quy lăng gia đình nghĩa trang ấp Phú Ninh, xã Giao Thiện.

 Ông là con trai cụ Cao Trung Thụy. Sinh thời cùng gia đình sinh sống

ở phố Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Năm 1945 - 1946 tham gia

Tự vệ chống phỉ. Năm 1947 - 1948 tham gia Vệ quốc đoàn. Năm 1948 gia đình về ở xã Giao Tiến. Năm 1951 gia đình ra sinh sống ở thành phố Hải Phòng. Tháng 9 năm 1956 đưa gia đình đi khai hoang, lập nghiệp ở Xóm 27, xã Giao Thiện. Năm 1958 ông mua nhà đất ở xã Giao Tiến để mẹ và 2 con trai ở đến năm 1964 bán lại cho ông Cao Trung Ngọ và chuyển hết ra xã Giao Thiện. Năm 1959 - 1985 tham gia công tác HTX Nông nghiệp, xã Giao Thiện. Được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Năm 1977 - 1981 ông tham gia tổ chức quy tập mộ, bước đầu xây dựng  khu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm 1992 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ họ chi.

   Bà Nguyễn Thị húy Bướm, hiệu Từ Thục

 Sinh năm:    Giáp Tý (1924).

 Mất ngày:    22 - 11 năm Ất Hợi (1995), thọ 72 tuổi.

 Mộ quy lăng cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Cừ, thôn Phú Mại, xã Tư Mại, huyện

Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình

 Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.

 Ba con trai:         - Trưởng là Cao Văn Hùng.

              - Thứ hai là Cao Bá Khoát.

              - Thứ ba là Cao Quốc Đạt (mất sớm 1958).

 Bốn con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Tường, sinh năm 1944. Chồng là Hoàng Phan Oanh, con ông Hoàng Văn Ngân, thôn Cộng Hòa. Sinh được 1 con trai, 7 con gái. Năm 1956 gia đình ra sinh sống ở Xóm 27, xã Giao Thiện.

        - Thứ hai là Cao Thị Hảo (1947 - 20. 4 .1950).

        - Thứ ba là Cao Thị Cửu, sinh ngày  31 - 1 - 1951. Giáo viên Trường Tiểu học, xã Giao Thiện, nghỉ hưu năm 2005. Chồng là Vũ Văn Hưng, con ông Vũ Văn Ba, xã Giao Thiện. Sinh được 1 con trai, 4 con gái.

        - Thứ tư là Cao Thị Thanh Thủy, sinh ngày 19 - 9 - 1961. Năm

1978 đi bộ đội ở Sơn Tây, sau sang làm nhiệm vụ Quốc tế ở Lào. Năm 1981 về phục viên. Chồng là Trần Trọng Hợp, con ông Trần Quang Tường, Xóm 13, xã Giao An. Sinh được 1 con trai và 2 con gái.

         Bà hai Nguyễn Thị húy Tâm, hiệu Diệu Phúc.

 Sinh năm:    Quý Dậu (1933).

         Mất ngày:    25 - 7 năm Canh Dần (2010), thọ 78 tuổi.

         Mộ quy lăng cùng với ông.

 Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Tốn, thôn Trực Thành, xã Trực Cát, huyện Trực Ninh. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình

 Ông bà sinh được: 2 con trai và 4 con gái.

 Hai con trai:       - Thứ nhất là Cao Quốc Đạt.

              - Thứ hai là Cao Văn Sơn.

 Ba con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Thập, sinh ngày 13 - 4 - 1956. Từ năm 1975 - 1990 là công nhân Công trường Cồn Lu, huyện Giao Thủy. Năm 1991 lấy chồng và sinh sống ở đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sinh được 2 con trai và 2 con gái.

        - Thứ hai là Cao Thị Thò (1959 - 1.1.1960).

        - Thứ ba là Cao Thị Chung, sinh ngày 13 - 12 - 1961. Chồng là Trần Văn Đáng, con ông Trần Văn Mai, xóm Xuân Tiến, xã Giao Xuân. Sinh được 2 con trai.

         - Thứ tư là Cao Thị Chinh, sinh ngày 16 - 10 - 1965. Chồng là Hoàng Văn Hùng, con ông Hoàng Văn Vũ, Xóm 14, xã Giao An. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.

     11. 2.5.14 -    Cao Công húy Văn Giới, hiệu Cẩn Thiện Phủ Quân Thần Vị.

Sinh năm:    Tân Dậu (1921).

Mất ngày:    6 - 11 năm Giáp Dần (1974), hưởng 54 tuổi.

Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Đang. Đương thời làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp ở quê.

   Bà Trần Thị húy Phan.

Sinh năm:    Nhâm Tuất (1922).

Mất ngày:    28 - 12 năm Ất Hợi (1995), thọ 74 tuổi.

Mộ quy lăng cùng với ông.

  Bà là con gái cụ Lý Tư họ Trần, xã Nam Hà, huyện Tiền Hải, tỉnh

Thái Bình. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình

Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.

  Con trai                  - Cao Đức Triệu.

  Bốn con gái:   

       - Thứ nhất là Cao Thị Thu, sinh năm 1948. Chồng là Lê Ngọc Bảo   

thôn Quyết Tiến. Sinh được 3 con trai và 2 con gái.

             - Thứ hai là Cao Thị The, sinh năm 1954. Chồng là Hoàng Quốc

Việt, thôn Đoàn Kết. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.

     - Thứ ba là Cao Thị Xuân, sinh năm 1957. Chồng là Nguyễn Văn Đạo, Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái. Sinh được 3 con gái.

     - Thứ tư là Cao Thị Thủy, sinh năm 1962. Chồng là Vũ Đức Thạnh, Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.

     11. 2.5.15 -        Cao Công húy Văn Tiu.

 Sinh năm:     Đinh Mão (1927).

 Mất ngày:    26 - 1 năm Giáp Tuất (1994), thọ 68 tuổi.

 Mộ an táng tại  nghĩa trang ấp Long Hà, xã Điền Hải, Đông Hải.

         Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung Đang. Đương thời làm ăn, sinh sống ở quê. Năm 1956 ra khai hoang, lập nghiệp ở Xóm 27, xã Giao Thiện. Tháng 3 - 1978 lại đưa gia đình vào lập nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, làm nông nghiệp.

    Bà Trần Thị húy Ngắn.

 Sinh năm:    Đinh Sửu (1937).

 Mất ngày:    28 - 7 năm Giáp Tý (1984), hưởng 48 tuổi.

 Mộ cùng nghĩa trang với ông.

 Bà là con gái cụ Trần Văn Đạt, xã Hồng Thuận, làm nông nghiệp.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 5 con gái.

 Con trai:               - Cao Đông Thiện.

 Bốn con gái:

  - Thứ nhất là Cao Thị Thanh, sinh năm 1958. Chồng là Phan Ngọc Quý, con ông Phan Văn Tỵ, xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định. Sinh được 3 con trai và 2 con gái.

- Thứ hai là Cao Thị Hồng, sinh năm 1966. Chồng là Nguyễn

Văn Nam, con ông Nguyễn Văn Doanh, xã Giao Yến. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà

- Thứ ba là Cao Thị Thơm, sinh năm 1968. Chồng là Nguyễn Văn Toản, con ông Nguyễn Viết Chinh, tỉnh Nghệ An. Sinh được 1 con trai

và 3 con gái. Gia đình ở thị trấn Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

- Thứ tư là Cao Thị Tho, mất sớm.

- Thứ năm là Cao Thị Mơ, sinh năm 1977. Chồng là Tô Xuân Tiến, con ông Tô Xuân Hòa, xã Giao Hà. Sinh được 1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

 

        C - CHI THỨ BA

     11. 3.1.16 -        Cao Công húy Xuân Phiêu.

 Sinh năm:    Giáp Tuất (1934).

 Mất ngày:    23 - 12 năm Kỷ Dậu (1969), hưởng 36 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm 5 Giao Tiến.

   Ông là con trai cụ Cao Đức Vựng. Sinh thời làm nông nghiệp, là Đội trưởng đội Thủy lợi, Trung đội phó Dân quân HTX Quyết Thắng. Được tặng Bằng khen Thủ tướng Chính phủ vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

    Bà Vũ Thị húy The.

 Sinh năm:    Quý Dậu (1933).

 Bà là con gái cụ Vũ Đức Xuyến. Sinh thời làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê. Từ năm 2008 vào Thành phố Vũng Tàu ở cùng với gia đình con trai thứ hai là Cao Văn Hiền. Năm 2001, bà tổ chức xây dựng lăng mộ của chi.

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 2 con gái.

 Bốn con trai:     - Trưởng là Cao Trần Dưỡng (Trần Hồi).

      - Thứ hai là Cao Văn Hiền.

      - Thứ ba là Cao Song Hảo.

      - Thứ tư là Cao Văn Hải.

 Hai con gái:  

           - Thứ nhất là Cao Thị Huệ (1957 - 1962).

           - Thứ hai là Cao Thị Lụa, sinh năm 1960. Chồng là Vũ Đức Chẩn con ông Vũ Đức Trung cùng thôn. Sinh được 3 con trai.

 

    11. 3.2.17-         Cao Công húy Văn An.

 Sinh năm:    Giáp Tý (1924),

 Mất ngày:    17 - 3 năm Quý Hợi (1983), thọ 60 tuổi.

 Mộ an táng ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Riễm. Năm 1945 ông cùng gia

đình chuyển lên sinh sống bằng nông nghiệp ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc,

thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

    Bà Hồ Thị húy Tự.

         Sinh năm:    Giáp Tý (1924),

         Mất ngày:    5 - 2 năm Ất Hợi (1995), thọ 72 tuổi.

         Mộ ở cùng nơi với ông.

          Bà quê ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc, Thành phố Yên Bái, làm nông nghiệp.

         Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.

 Con trai:                 - Cao Văn Chung.

 Bốn con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Bích, sinh năm 1949, lấy chồng ở xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Sinh được 3 con gái.

         - Thứ hai là Cao Thị Thái, sinh năm 1952, lấy chồng người cùng xã. Sinh được 3 con trai và 1 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Xuân, sinh năm 1955, lấy chồng người cùng xã. Sinh được 1 con trai và 3 con gái.

         - Thứ tư là Cao Thị Thu, sinh năm 1957, lấy chồng ở huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.

 

 

    11. 3.2.18 -      Cao Công húy Văn Lan.

         Mất năm:    Kỷ Dậu (1969).   

         Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Riễm. Ông bị bệnh tâm thần, không lập gia đình.

          D - CHI THỨ TƯ

     11. 4.1.19 -    Cao Công húy Ngọc Xướng, hiệu Hiền Hoà Phủ Quân.

         Sinh năm:     Nhâm Dần (1902).

         Mất ngày:    19 - 12 năm Kỷ Dậu (1969), thọ 68 tuổi.

         Mộ quy lăng của chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

          Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Lừng. Sinh thời đi lính khố xanh

sang Pháp, Trung Quốc, làm chức Cai đội. Ông giỏi nghề thợ mộc, đã đào

tạo cho con cháu và nhiều người khác thành nghề.   

    Lê Thị húy Nhôi, hiệu Diệu Tiến.

    Sinh năm:     Bính Ngọ (1906).

    Mất ngày:    15 - 11 năm Quý Dậu (1993), thọ 88 tuổi.

    Mộ quy lăng cùng với ông.

    Bà là con gái cụ Lê Nhai, thôn Thống Nhất, làm nông nghiệp.

    Ông bà sinh được: 6 con trai và 3 con gái.

 Sáu con trai:  

   - Trưởng là Cao Trung Toản.

   - Thứ hai là Cao Trung Tôn.

   - Thứ ba là Cao Văn Toan, mất sớm.

   - Thứ tư là Cao Hữu Nghị.

   - Thứ năm là Cao Văn Phi, mất sớm.

   - Thứ sáu là Cao Phạm Ái.

 Ba con gái:   

         - Thứ nhất là Cao Thị Hinh, sinh năm Giáp Tuất (1934). Chồng là Nguyễn Lữu con ông Nguyễn Thuỵ cùng thôn. Sinh được 2 con trai, 3 con gái

         - Thứ hai là Cao Thị Hương, sinh năm Bính Tý (1936). Chồng là Nguyễn Hải con ông Nguyễn Chính cùng thôn. Sinh được 1 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Phú, sinh năm Kỷ Sửu (1949), mất ngày 20- 9 - 1985. Chồng là Nguyễn Sính con ông Nguyễn Suý cùng thôn.

 

 

11. 4.1.20 -    Cao Công húy Văn Nghiêm, hiệu Hoà Nhã.

    Sinh năm:     Bính Ngọ (1906).

 Mất ngày:    23 - 12 năm Nhâm Thìn (1952), hưởng 47 tuổi.

 Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

 Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Lừng, làm nông nghiệp.

    Bà Mai Thị húy Nhàn.

    Bà là người họ Mai ở thôn Quy Chính, làm nông nghiệp.

    Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái

 Hai con trai:    - Trưởng là Cao Văn Phẩm, mất sớm.

     - Thứ hai là Cao Văn Đỏ, mất sớm.

 Con gái:  - Cao Thị Rún, năm 1953 đi vào miền Nam và mất tích.

 

     11. 4.1.21 -      Cao Công húy Đức Xương.

   Sinh năm:    Ất Mão (1915).

   Mất ngày:    11 - 4 năm Canh Thìn (2000), thọ 86 tuổi.

   Mộ an táng tại nghĩa trang Nhân dân thành phố Thanh Hóa.

   Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Lừng. Thời trẻ ông đi làm ăn, sinh

sống ở Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 vào Thanh Hóa làm công cho chủ mỏ Cromit Cổ Định. Sau Cách mạng  tháng 8 năm 1945 cùng gia đình về làm ruộng và buôn bán nhỏ ở phố Cầu Quan, xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Từ năm 1956 vào làm việc ở Ty Thương nghiệp tỉnh Thanh Hóa, được giao nhiệm vụ phụ trách các cửa hàng ăn uống: Nông Cống, Triệu Sơn, Sầm Sơn và sân bay Sao Vàng. Năm 1975 về nghỉ hưu.

   Bà Mai Thị húy Minh.

   Sinh năm:     Bính Thìn (1916).

   Mất ngày:    28 - 4 năm Giáp Thân (2004), thọ 89 tuổi.

   Mộ an táng tại nghĩa trang nhân dân thành phố Thanh Hóa.

    Bà quê ở làng Bình An, xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Năm 1941 - 1945 làm công cho chủ mỏ Cromit Cổ Định, Thanh Hóa. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cùng gia đình về làm ruộng và buôn bán nhỏ ở Cầu Quan, xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Bà tham gia các công tác xã hội: Ủy viên HĐND, ủy viên BCH Hội Nông dân và BCH Hội Phụ nữ, xã Trung Chính.

   Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.

  Ba con trai:     

                            - Trưởng là Cao Anh Long.

       - Thứ hai là Cao Đức Hải.

       - Thứ ba là Cao Đức Dũng.

  Ba con gái:

       - Thứ nhất là Cao Thị Thoa, sinh năm 1937. Làm công nhân mỏ

 Cromit Cổ Định, Thanh Hóa, mỏ thiếc Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Chồng là ông Bùi Văn Bê, quê ở tỉnh Tiền Giang (đã hy sinh). Sinh được 2 con trai. Gia đình ở xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

      - Thứ hai là Cao Thị Sơn, sinh năm 1945. Năm 1966 - 1970 học

 Trường Đại học Sư phạm Vinh, bằng Cử nhân Vật lý. Năm 1971 - 1993 dạy học ở các nơi: Trường Thanh niên lao động XHCN Hòa Bình; Trường cấp III Lương Sơn, Hòa Bình; Trường THPT Nông Cống, Thanh Hóa. Được thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục  Đào tạo. Chồng là ông Trần Quang Hanh, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia đình ở xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

        - Thứ ba là Cao Thị Ngọc Bích, sinh năm 1958. Năm 1976 -

1979 học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Nhạc họa Trung ương. Làm giáo viên dạy nhạc Trường Trung học Điện Biên II, thành phố Thanh Hóa, lấy ông Vũ Đình Khiêm. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở đường Triệu Quốc Đạt, thành phố Thanh Hóa.

     11. 4.2.22 -        Cao Công húy Văn Bò.

 Mất ngày:                        , hưởng 17 tuổi.

 Mộ quy lăng của chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

 Ông là con trai cụ Cao Đức Lẫy, mất sớm chưa lập gia đình.  

 

   Đ - CHI THỨ NĂM

 11. 5.1.23 -    Cao Công húy Đinh Ruy, hiệu Từ Mẫn.

    Sinh năm:    Quý Sửu (1913).

    Mất ngày:    27 - 12 năm Kỷ Mão (1999), thọ 87 tuổi.

    Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

    Ông là con trai thứ hai cụ Đinh Xuân Đễ, xã An Cư, huyện Xuân Trường. Năm 1938 - 1940 ông cùng bố xuống xã Hoành Nha tham gia trong tốp thợ xây miếu thôn Thượng, khi đó cụ Cao Duy Tân trong Ban Kiến thiết do có mối quan hệ tốt nên đã nhận đỡ đầu và đưa ông Đinh Ruy vào họ Cao để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cư và làm ăn sinh sống ở xã Hoành Nha. Hậu duệ của ông đến nay đã đến đời thứ 4 làm ăn phát triển ổn định trên đất Hoành Nha nay là xã Giao Tiến và tham gia đóng góp các công việc của họ cho tới ngày nay. Sinh thời ông làm thợ xây vào loại giỏi nổi tiếng ở xã Hoành Nha (sau là xã Giao Tiến), đã đào tạo được các con và nhiều người khác thành nghề. Năm 1997 ông đóng góp tư vấn về chuyên môn xây dựng nhà thờ phái tổ Cao Đức Thiệm.

    Bà Phạm Thị húy Goay, hiệu Diệu Thuận.

    Sinh năm:    Mậu Ngọ (1918).

    Mất ngày:    28 - 5 năm Nhâm Ngọ (2002), thọ 85 tuổi.

    Mộ quy lăng cùng với ông.

    Bà là con gái cụ Phạm Văn Xuân, xã Giao Tiến. Sinh thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

    Ông bà sinh được: 3 con trai và 1 con gái.

 Ba con trai:        

                            - Trưởng là Cao Quang Bình.

       - Thứ hai là Cao Đình Ban.

       - Thứ ba là Cao Ngọc Phong.

 Con gái:

                - Cao Thị Minh, sinh năm 1958, mất năm 2004. Chồng là Hoàng Trung Thực, con ông Hoàng Văn Huỳnh, Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.


ĐỜI THỨ MƯỜI HAI

          A - CHI TRƯỞNG 

     12. 1.1.1 - Cao Công húy Khắc Khoan, hiệu Nhân Hòa.

    Sinh năm:    Mậu Thìn (1928), thôn Cộng Hoà.

    Mất ngày:    8 - 6 năm Ất Sửu (1985), hưởng 58 tuổi.

     Mộ ở lăng gia đình nghĩa trang Công viên Vĩnh hằng Ba Vì, Hà Nội.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Xuân Hạ. Sinh thời, trước năm 1954 làm ruộng và tham gia làm ăn buôn bán với bố mẹ. Sau Hòa bình lập lại năm 1954 bố mẹ có chung với 2 gia đình khác 1 con thuyền gỗ trọng tải khoảng 20 tấn và sau đó năm 1957 đóng riêng 1 con thuyền khác trọng tải khoảng 25 tấn thì chuyển sang chuyên làm thuyền. Từ phụ lái sau làm lái chính và quản lý toàn bộ con thuyền. Chuyên chở thóc, gạo, muối và các hàng hóa khác cho nhà nước, hoạt động ở vùng Nam Định và các tỉnh khác ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Năm 1960 vào HTX Thuyền buồm Nam Định, mấy năm sau làm ăn kém hiệu quả, thôi không làm nữa. Năm 1966 ông đưa gia đình đi khai hoang ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (nay là phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Làm nông nghiệp: trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi.

    Bà Lê Thị húy Nguyên, hiệu Từ Thuận.  

 Sinh năm:    Kỷ Tỵ (1929), xã Hoành Tam.

 Mất ngày:    29 - 9 năm Quý Mùi (2003), thọ 75 tuổi.

 Mộ an táng tại nghĩa trang cùng với ông

 Bà là con gái cụ Bá Soạn họ Lê, xã Hoành Tam, nay là xã Hoành Sơn. Sinh thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình. Sau khi ông mất, năm 1998 bà bán nhà ở Xuân Tăng, mua nhà ở phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai để gần con cháu và mất ở đấy.

 Ông bà sinh được: 5 con trai và 4 con gái.

 Năm con trai:  

                           - Trưởng là Cao Trọng Hiền.

      - Thứ hai là Cao Văn Tham.

      - Thứ ba là Cao Quốc Hóa.

      - Thứ tư là Cao Văn Viên.

      - Thứ năm là Cao Quốc Trinh.

 Bốn con gái:

           - Thứ nhất là Cao Thị Hằng, sinh năm 1952, Mất ngày 16 - 8 - 2013. Chồng là Triệu Quốc Việt, quê tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội). Sinh được 3 con trai và 2 con gái. Gia đình ở thôn Làng Múc, xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

          - Thứ hai là Cao Thị Tố, sinh năm 1955. Chồng là Vũ Duy Thanh con ông Vũ Quốc Bảo, thôn Việt Dũng. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

          - Thứ ba là Cao Thị Thanh, sinh năm 1962. Là Cử nhân Kinh tế, làm kế toán ở Công ty APATIT, tỉnh Lào Cai, năm 2018 nghỉ hưu. Chồng là Nguyễn Đỗ Hải, thành phố Hà Nội. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở phường Pom Hán, thành phố Lào Cai.

           - Thứ tư là Cao Thị Hồng, sinh năm 1970. Cử nhân Sư phạm, Hiệu trưởng Trường THCS Lý Tự Trọng, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Chồng là Lê Quang Minh, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.

12. 1.1.2 -           Ông Cao Đăng Rong.

 Sinh ngày:    1 - 2 - 1935 (25 - 12 - Giáp Tuất), thôn Cộng Hoà.

    Ông là con trai thứ hai cụ Cao Xuân Hạ. Năm 1952 học lớp 6 Trường cấp II Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 1953 học tiếp cấp II Trường Tống Duy Tân, Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đầu năm 1954 vào Thanh Hóa học tiếp đi bằng đường biển và bị địch bắt đưa ra giam ở Hải Phòng hơn 2 tháng sau trốn ra được. Năm 1955 - 1958 học Trường cấp III Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Từ năm 1959 đi làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên, là công nhân Trắc địa. Năm 1974 tốt nghiệp Đại học Xây dựng, là Kỹ sư Xây dựng làm việc ở Phòng Thiết kế Công ty. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên. Năm 1984 vào thành phố Vũng Tàu làm Phó Giám đốc Xí nghiệp Kết cấu thép thuộc Liên hiệp Xây lắp Dầu khí, Tổng cục Dầu khí. Năm 1995 về nghỉ hưu. Được Nhà nước thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Hai. Gia đình ở SN 188, Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu.

         Bà Trần Thị Phụng.

         Sinh năm:    Bính Tý (1936), xã Xuân Trung.

         Mất ngày: 21 tháng 10 năm Quý Mão (03 - 12 - 2023). Hưởng thọ 88 tuổi.

         Phần mộ tại nghĩa trang Long Hương thành phố Bà Rịa tỉnh BR-VT.

          Bà là con gái cụ Tư Lý họ Trần, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường.

Năm 1953 đi dân công phục vụ chiến dịch Hoà Bình 6 tháng. Năm 1954 -

1964 làm thuyền cho gia đình và buôn bán nhỏ. Năm 1964 - 1984 làm việc tại Xưởng Đường Sắt (sau là XN Vận chuyển Đường sắt) và Xưởng Cơ khí (sau là Nhà máy Cơ khí) thuộc Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Năm 1984 - 1993 chuyển vào làm việc tại Xí nghiệp Kết cấu thép thuộc Liên hiệp Xây lắp Dầu khí tại thành phố Vũng Tàu. Được Nhà nước thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba.

 Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.

 Ba con trai:     - Trưởng là Cao Đăng Rung.

          - Thứ hai là Cao Đăng Phong (Đại Tống).

          - Thứ ba là Cao Kinh Thao.

 Ba con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Nguyệt, sinh năm 1959. Chồng là Mai Văn Lâm, làng Chuông, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên.

          - Thứ hai là Cao Thị Hà, sinh năm 1969. Làm việc ở Nhà Văn hóa của Liên doanh Dầu khí VIETSOPETRO. Chồng là Ngô Tuấn Anh quê tỉnh Thái Bình. Sinh được 1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu.

         - Thứ ba là Cao Thị Thành, sinh năm 1971. Học Trường ĐH Ngoại ngữ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp Cử nhân tiếng Nga, làm việc tại Công ty Khí, Thành phố Vũng Tàu. Chồng là Trần Ngọc Tôn, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu.

 

 

    12. 1.1.3 -            Ông Cao Quốc Hữu.

 Sinh ngày:    12 - 8 - 1941 (Tân Tỵ), thôn Cộng Hoà.

    Ông là con trai thứ ba cụ Cao Xuân Hạ. Năm 1958 tốt nghiệp Trường cấp II Diên Hồng, thành phố Nam Định. Từ năm 1960 - 1962 học Trung cấp Thủy lợi ở Hà Nội. Năm 1962 về công tác ở Ty Thủy lợi tỉnh Hà Bắc. Năm 1963 chuyển về công tác tại Ty Thủy lợi tỉnh Yên Bái. Năm 1971 - 1975 học Trường Đại học Thủy lợi Hà Nội. Tốt nghiệp Kỹ sư Thủy lợi, về công tác ở Sở Thủy lợi tỉnh Hoàng Liên Sơn. Khi tách tỉnh công tác ở Sở Thủy lợi tỉnh Yên Bái (nay là Sở NN&PTNN). Từ năm 1980 - 2002 là Phó Giám đốc Xí nghiệp KSTK Thuỷ lợi, Thuỷ điện; Phó Giám đốc Công ty XL Thuỷ lợi, Thuỷ điện; Phó Trưởng Chi cục Thuỷ lợi tỉnh Yên Bái. Năm 2002 về nghỉ hưu, năm 2002 - 2017 cùng bạn bè mở Công ty TNHH, là Giám đốc CTCP Tư vấn Thiết kế TL&PTNT Yên Bái. Được thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huy chương vì sự nghiệp Nông nghiệp Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn, Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng. Gia đình ở SN 1027, đường Yên Ninh, phường Minh Tân, Thành phố Yên Bái. Năm 2015 - 2016  ông thiết kế, chỉ đạo thi công xây dựng Hoạt Tế Đường và tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

    Bà Mai Thị Dung.

 Sinh năm:    Nhâm Ngọ (1942), thôn Quy Chính.

 Bà là con gái cụ Mai Văn Khoa, thôn Quy Chính. Năm 1967 - 1993, làm việc ở Công ty Vật tư Nông nghiệp tỉnh Yên Bái.

 Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

    Hai con trai:        - Trưởng là Cao Bình Định.

              - Thứ hai là Cao Bình Cung.

    Con gái:    

                 - Cao Mai Phương, sinh ngày 22 - 10 - 1975. Cử nhân Tài chính, từ năm 2002 đến nay làm việc ở Cục thuế tỉnh Yên Bái. Chồng là Nguyễn Thanh Phương, thành phố Yên Bái. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở đường Quang Trung, thành phố Yên Bái.

    12. 1.1.4 -          Ông Cao Quốc Sủng.

  Sinh ngày:    10 - 4 - 1947 (Đinh Hợi), thôn Cộng Hoà.

  Mất ngày: 24 ttháng 11 năm Quý Mão (2023), hưởng thọ 77 tuổi.

  Mộ tại nghĩa trang Bách Linh xã Giao Tiến.

      Ông là con trai thứ tư cụ Cao Xuân Hạ. Năm 1962 tốt nghiệp Trường cấp II xã Giao Hoan (nay là xã Giao Thịnh). Năm 1962 - 1965 đi khai hoang cùng gia đình ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (nay là phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Năm 1965 - 1968 học Trường Trung cấp Cơ khí - Luyện kim, Bắc Thái. Năm 1968 làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Năm 1968 - 1969 tham gia Quân đội, sau đó xuất ngũ trở về làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên đến khi nghỉ hưu. Năm 1979 tốt nghiệp Kỹ sư Luyện kim. Năm 1981 - 1983 học tại Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. Năm 1984 làm Phó Giám đốc, năm 1990 làm Giám đốc, năm 1993 kiêm Bí thư Đảng ủy Nhà máy Cán thép Lưu Xá, Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Gia đình ở phường Trung Thành, Thành phố Thái Nguyên. Năm 2005 về nghỉ hưu, năm 2006 cùng gia đình chuyển về Thành phố Hà Nội, ở căn hộ 714, nhà CT5, phố Trần Văn Lai, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm.

      Được thưởng: Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Chiến sỹ Thi đua ngành Công nghiệp; Huy chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn; Bằng Lao động Sáng tạo của Tổng Liên đoàn LĐVN; Huy chương Bảo vệ ANTQ; Huy chương vì sự phát triển Công nghiệp Việt Nam; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Vũ trang Quần chúng; Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng.

      Năm 2015 - 2016 làm Trưởng ban Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng, chịu trách nhiệm chính phần thiết kế và tổ chức thi công; tham gia chỉ đạo thi công xây dựng Hoạt Tế Đường. Ông là Biên soạn chính cuốn Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, Giao Tiến năm 2018. Tổ chức và là biên soạn chính cuốn Gia phả Phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.

          Bà Tạ Thị Khánh.

  Sinh ngày:    6 - 4 - 1953 (Quý Tỵ), thôn Đông Hạ.

  Bà là con gái cụ Tạ Văn Tuệ, thôn Đông Hạ, xã Hùng Cường, thành

phố Hưng Yên (trước thuộc huyện Kim Động), tỉnh Hưng Yên. Năm 1971 - 1984 làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên, Công ty Lâm sản Đông Bắc. Năm 1984 - 2003 làm việc ở Nhà máy Cán thép Lưu xá, Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Được thưởng Huy chương vì sự phát triển CNVN.

  Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

          Con trai:          - Cao Quang Khải (Kinh Vũ).

         Con gái:

        - Cao Thị Thanh Huyền, sinh ngày 20 - 8 - 1973. Cử nhân Kế toán Trường Đại học Thương mại, Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Làm việc ở: Nhà máy Cán thép Lưu xá, Chi nhánh Thép Hà Nội (cả hai thuộc Công ty Gang Thép Thái Nguyên), Công ty NEWTATCO của Quân đội. Chồng là Lê Hùng Chiến, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở SN 8, Ngõ 22, phố Đỗ Quang, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

 

    12. 1.2.5 -    Cao Công húy Ngọc Cờn,  tự Năng Động, hiệu Phúc Kình.

 Sinh năm:    Mậu Thìn (1928), thôn Cộng Hoà.

 Mất ngày:    8 - 4 năm Canh Dần (2010), thọ 83 tuổi.

 Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi Ry, còn có tên là Chi Kiền. Năm

1945 - 1950 tham gia hoạt động một số phong trào của địa phương. Năm 1950 - 1954 ra cảng Hải Phòng làm ăn. Năm 1954 về quê làm ruộng, tham gia Hợp tác xã Nông nghiệp. Sau đó tham gia Ban Quản trị và Ban Kiểm soát của Hợp tác xã Chiếu cói Tiến Thắng. Năm 1989 nghỉ về làm kinh tế gia đình, làm ruộng và bột dong, bột sắn.

    Năm 1977 - 1981 tham gia cùng các cụ, các ông quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm 1997 ông hiến đất và tham gia chỉ đạo kiến thiết nhà thờ của phái.

    Bà Hoàng Thị húy Mơ, tự Hiếu Hạnh, hiệu Diệu Mai.

         Sinh năm:    Mậu Thìn (1928), thôn Cộng Hoà.

         Mất ngày:    24 - 5 năm Giáp thân (2004), thọ 77 tuổi.

         Mộ quy lăng cùng với ông.

          Bà là con gái cụ Hoàng Văn Ngân, thôn Cộng hòa. Đương thời làm nông nghiệp và buôn, bán nhỏ.

 Ông bà sinh được: 2 con trai và 6 con gái.

         Hai con trai:   - Trưởng là Cao Xuân Thiện (Xuân Kiệm).

                        - Thứ hai là Cao Xuân Khảm (1970 - 1971).

   Sáu con gái:

- Thứ nhất là Cao Thị Rằm, sinh năm 1951, mất ngày 9 - 10 - 1976. Chồng là Phạm Trọng Trử, xã  Hoành Tứ. Sinh được 1 con trai.

- Thứ hai là Cao Thị Răm (1954 - 24. 3.1960).

- Thứ ba là Cao Thị Liên, sinh ngày 19 - 7- 1960. Chồng là Hoàng Thanh Hiện, thôn Cộng Hòa. Sinh được 1 con gái và 1 con trai.

- Thứ tư là Cao Thị Huyền, sinh ngày 26 - 4 - 1963. Chồng là Vũ Văn Hồng, thôn Quy Chính. Sinh được 3 con trai.

- Thứ năm là Cao Thị Ngoan (1966, mất 5 tháng tuổi).

- Thứ sáu là Cao Thị Vân, sinh ngày 3 - 4 - 1968. Chồng là Lưu Công Luân, xã Giao Yến. Sinh được 2 con gái và 1 con trai.

12. 1.2.6 -  Cao Công huý Chi Thừng tự Chính Trực, hiệu Phúc Thuận Phủ Quân.

 Sinh ngày:    15 - 6 - 1936 (Bính Tý), thôn Cộng Hoà.

 Mất ngày:    10 - 2 - 2022 (Nhâm Dần), thọ 87 tuổi.

 Mộ an táng tại nghĩa trang nhân dân xã Giao Lạc.

 Ông là con trai thứ hai cụ Cao Chi Ry. Năm 1949 tham gia làm liên lạc cho du kích, có lần bị giặc ở bắt giam Bùi Chu, huyện Xuân Trường. Năm 1951 - 1954 ra cảng Hải Phòng làm ăn sau năm 1954 về làm ruộng, vào Hợp tác xã Nông nghiệp và học thêm nghề thợ xây ở quê. Năm 1965 ra xã Giao Lạc làm nghề xây dựng sau đó định cư ở Xóm 2, xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tham gia dân quân xã. Hội viên Hội CCB Việt Nam.

    Bà Phạm Thị Tám.

 Sinh năm:    Mậu Dần (1938).

 Bà là con gái cụ Phạm Ngọc Nhu, xã Giao Lạc. Làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

 Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.

 Bốn con trai:     - Trưởng là Cao Văn Chiến.

      - Thứ hai là Cao Văn Thắng.

      - Thứ ba là Cao Văn Điện.

      - Thứ tư là Cao Văn Biên.

         Con gái: 

                    - Cao Thị Nhung, sinh ngày 16 - 7- 1973. Chồng là Nguyễn Ngọc Bình, xã Giao Thanh. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.

    12. 1.2.7 -             Ông Cao Xuân Thế.

 Sinh ngày:    3 - 3 - 1944 (Giáp Thân), thôn Cộng Hoà.

     Ông là con trai thứ tư cụ Cao Chi Ry. Năm 1963 - 1989 làm việc ở Ty Giao thông Vận tải, tỉnh Lào Cai, là công nhân, cán bộ cung ứng vật tư, Đội trưởng Công trường. Năm 1971 - 1979 gia đình ở Lào Cai. Năm 1979 Trung Quốc đánh Lào Cai gia đình đến ở thị xã Nghĩa Lộ. Năm 1983 chuyển ra thị xã Yên Bái. Năm 1989 về nghỉ hưu ở thị xã Yên Bái. Năm 1991 cả gia đình đến định cư ở xã Xuân Giao, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Sau khi nghỉ hưu vẫn tham gia cấp ủy và một số công tác khác ở địa phương. Năm 2009 gia đình lại chuyển lên ở phố Hoàng Quy, phường Bắc Cường, Thành phố Lào Cai. Năm 2018 về ở quận Hà Đông, Hà Nội cùng gia đình con trai. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp GTVT; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

          Bà Đỗ Thị húy Đãng.

  Sinh năm:     Đinh Hợi (1947).

  Mất ngày:     22 - 8 năm Đinh Dậu (2017), thọ 71 tuổi.

  Mộ an táng ở nghĩa trang phường Thống Nhất, thành phố Lào Cai.

  Bà là con gái cụ Đỗ Văn Lợi, xã Hợp Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam.

Từ năm 1967 - 1987 làm việc ở ngành Dược phẩm tỉnh Lào Cai. Được khen thưởng: Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Y dược.

          Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

  Con trai:                    - Cao Anh Hào.

  Ba con gái:

           - Thứ nhất là Cao Thị Thúy Hoàn, sinh ngày 16 - 9 - 1973. Học Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên. Bác sỹ đa khoa, làm việc tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Lào Cai. Chồng là Trịnh Văn Mười, thành phố Lào Cai. Sinh được 2 con trai.

           - Thứ hai là Cao Thị Minh Hảo, sinh ngày 29 - 3 - 1975. Giáo viên THCS, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Chồng là Đỗ Trung Lượng, xã Giao Thịnh. Sinh được 2 con gái, 1 con trai. Gia đình ở huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

           - Thứ ba là Cao Thị Thúy Hiền, sinh ngày 30 - 7 - 1977, mất ngày  8 - 6 - 2004, là giáo viên THCS. Chồng là Vũ Đức Long, thôn Việt Dũng. Sinh được 1 con trai.

     12. 1.2.8 -             Ông Cao Văn Tộ.

  Sinh năm:     Đinh Hợi (1947), thôn Cộng Hoà.

  Ông là con trai thứ năm cụ Cao Chi Ry, làm kế tự chú ruột là Cao Chi Phạng. Ông làm nông nghiệp ở quê nhà.

     Bà Phạm Thị Nở.

          Sinh năm:    Kỷ Sửu (1949).

           Bà là con gái cụ Phạm Tân, thôn Quyết Thắng, làm nông nghiệp và

nội trợ gia đình.

          Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

          Hai con trai:       

        - Trưởng là Cao Ngọc Chinh.

        - Thứ hai là Cao Văn Nhàn.

          Con gái:   - Cao Thị Hơn, sinh ngày 6 - 11 - 1972.

      12. 1.3.9 -           Ông Cao Bàng Đức.

  Sinh ngày:    31- 12 - 1955 (Ất Mùi), phường Cát Dài, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

          Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Cẩm. Năm 1974 - 1978 học Trường Sư phạm dạy nghề Hưng Yên. Từ năm 1978 - 2015 làm việc cho Công ty APATIT Lào Cai, trong đó: Năm 1978 - 1994 làm việc ở Trường Trung cấp nghề, năm 1994 đến 2015 làm việc ở Nhà máy Tuyển Tằng Loỏng. Năm 1991 tốt nghiệp Trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên. Kỹ sư Cơ khí Động lực, UVBCH Đảng ủy, Phó Chủ tịch Công đoàn Nhà máy Tuyển Tằng Loỏng, kiêm Quản đốc Phân xưởng Cơ khí - Vận tải.

          Được thưởng Huy chương vì sự nghiệp Công nghiệp Việt Nam. Nghỉ hưu năm 2015. Gia đình  ở Tổ 4, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.

          Bà Trần Thị Oanh.

          Sinh ngày:    12 - 9 - 1956 (Bính Thân).

           Bà là con gái cụ Trần Đình Ong, xã Hà Lộc, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1973 làm việc ở Ngân hàng thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai (nay là phường Bắc Lệnh, Thành phố Lào Cai). Năm 1993 nghỉ hưu.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con gái.

Con trai:                - Cao Hải Long

Hai con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Hồng Loan, sinh ngày 12 - 11- 1978. Học Trung cấp Mầm non. Từ năm 2011 - 2016 làm việc tại Trường Mầm non thị trấn Bát Xát, Trường Mầm non phường Pom Hán, thành phố Lào Cai. Chồng là Nguyễn Quang Hùng, thôn Đồng Đại, xã Đồng Thanh, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở Tổ 4, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.

         - Thứ hai là Cao Thị Diệu Linh, sinh ngày 25 - 11- 1982. Là Cử nhân Tài chính Ngân hàng. Năm 2018 tốt nghiệp Cao học Học viện Ngân hàng. Từ năm 2005 đến nay làm việc ở Ngân hàng Nông nghiệp, huyện Bát Xát, Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Cam Đường thành phố Lào Cai. Chồng là Nguyễn Thanh Tùng, con ông Nguyễn Văn Lân, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai. Sinh được 1 con trai. Gia đình ở Tổ 5, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.

     12. 1.3.10 -           Ông Cao Trọng Đạt.

         Sinh năm:    Tân Sửu (1961), thôn Cộng Hoà.

          Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Cẩm. Gia đình làm nông nghiệp, thôn Lá Luộc, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, nay là Tổ 1, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Bà Phạm Thị Nguyệt.

Sinh năm:    Nhâm Dần (1962).

Bà là con gái cụ Phạm Văn Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

Con trai:                 - Cao Văn Thành.

Ba con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Thúy, sinh ngày 29 - 3 - 1983, là giáo viên. Chồng là Trần Hữu Hưng, con ông Trần Hữu Hà, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở Tổ 1, thị trấn Bát Xát, Lào Cai.

         - Thứ hai là Cao Thị Thuyết, sinh ngày 29 - 9 - 1990. Học Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai, làm việc ở Trường Mầm non xã Quang Kim, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Bùi Đức Dũng, con bà Nguyễn Thị Cúc, quê ở xã Giao Hà, huyện Giao Thuỷ. Sinh được 1 con gái. Gia đình ở Tổ 2, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

         - Thứ ba là Cao Thị Hà, sinh ngày 5 - 4 - 1993, là giáo viên ở

Trường Mầm non Số 1, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Nguyễn Văn Lợi, con ông Nguyễn Văn Lăng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sinh được 1 con trai. Gia đình ở Tổ 1, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

 

 

 12. 1.3.11 -            Ông Cao Kỳ Lân.

 Sinh ngày:   12 - 1- 1968 (Đinh Mùi, 1967), xã Bản Qua, Bát Xát.

Ông là con trai thứ ba cụ Cao Văn Cẩm. Gia đình làm nông nghiệp, thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Bà Lý Thị Liên.

Sinh tháng 1- 1969 (Mậu Thân, 1968).

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

Con trai:                   - Cao Văn Hưng.

Con gái:   

          - Cao Thị Hằng, sinh ngày 3 - 7- 1989. Học Trường Cao đẳng Kinh tế Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làm việc ở tỉnh Bắc Ninh. Chồng là Hoàng Văn Ánh, con ông Hoàng Văn Tuấn ở Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

       12. 1.3.12 -         Ông Cao Hoài Ngọc.

Sinh ngày:   22 - 5 - 1971 (Tân Hợi), xã Bản Qua, Bát Xát.

          Ông là con trai thứ tư cụ Cao Văn Cẩm. Gia đình làm nông nghiệp, thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Bà Hoàng Thị Ngò.

Sinh năm:     Kỷ Dậu (1969).

Bà là con gái cụ Hoàng A Hòa, xã Bản Qua, Bát Xát, Lào Cai.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con gái.

Con trai:                   - Cao Quang Trung.

Hai con gái:

          - Thứ nhất là Cao Thị Hạnh, sinh ngày 22 - 10 - 1990. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Lào Cai. Hiện đang cư trú ở thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Nguyễn Đức Trung, con ông Nguyễn Đức Dũng ở xã Thanh Sơn, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Sinh được 1 con trai.                                                                - Thứ hai là Cao Thị Phúc, sinh ngày 17- 5 - 1993. Tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Thái Nguyên, làm việc ở Trung tâm Ngoại ngữ Lào Cai.

     12. 1.3.13 -         Ông Cao Văn Hùng.

Sinh năm:    Nhâm Dần (1962).

Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Tiên, đã đổi sang họ Nguyễn. Hiện nay ông cùng gia đình đang định cư ở bang Tếchdát, Mỹ.

Bà  ...           Thị Tuyết

Ông bà sinh được 1 con gái:     - Cao Thị Trinh

12. 1.3.14 -         Ông Cao Khắc Việt.

Sinh năm:     Canh Tuất (1970).

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Tiên, đã đổi sang họ Nguyễn. Gia

đình làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, xã Mương Mán, huyện

Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

     Bà Trần Hải Yến.

     Sinh năm:    Giáp Dần (1974).

     Bà quê gốc ở tỉnh Hà Tĩnh. Làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

     Ông bà sinh đươc 1 con trai, 1 con gái.

          Con trai:                      - Cao Duy.

     Con gái:    

                    - Cao Thục Duyên, sinh ngày 1 - 1 - 1998. Học Trường CĐ Điện lực, Thành phố HCM. Chồng là Đào Vũ Nguyên Khôi, con ông Đào Sỹ Hưởng ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hiện gia đình ở tỉnh Bình Thuận.


 12. 1.4.15 -   Cao Công húy Văn Quy,  hiệu Trung Nghĩa.

          Sinh năm:    Kỷ Mão (1939), thôn Việt Dũng.

          Mất ngày:    4 - 5 năm Kỷ Hợi (2019), thọ 81 tuổi.

  Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

      Ông là con trai cụ Cao Văn Tri. Năm 1964 - 1975 tham gia Quân đội ở Tiểu đoàn 2, Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần. Đơn vị ở tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh, phục vụ chiến trường tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, chức vụ Máy trưởng tàu vận tải. Năm 1975 về phục viên, làm ruộng, buôn bán nhỏ và tham gia công tác Văn hóa ở địa phương. Từ năm 2007 - 2013 làm Trưởng đài Truyền thanh HTX Quyết Tiến. Từ năm 2017 - 2019 làm Thủ từ miếu thôn Thượng Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhì và Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Vận tải Quân sự; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Người cao tuổi; Kỷ niệm chương của Trung ương Hội CCB Việt Nam. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm 2015 - 2016 tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

   Bà Hoàng Thị húy Nhâm, hiệu Diệu Quý.

   Sinh năm:    Tân Tỵ (1941), thôn Việt Dũng.

   Mất ngày:    7 - 4 năm Kỷ Hợi (2019), thọ 79 tuổi.

   Mộ quy lăng cùng với ông.

   Bà là con gái cụ Hoàng Văn Cầu, thôn Việt Dũng. Đương thời làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ.

           Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.

   Con trai:                   

                               - Cao Văn Thục.

   Bốn con gái:

             - Thứ nhất là Cao Thị Thảo, sinh năm 1966. Chồng là Phạm Văn Thu, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường. Gia đình làm nông nghiệp. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

             - Thứ hai là Cao Thị Nhung, sinh năm 1969. Chồng là Vũ Văn Tiến, con ông Vũ Văn Đốc, thôn Quyết Thắng. Gia đinh làm nông nghiệp. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

             - Thứ ba là Cao Thị Lan, sinh năm 1975. Chồng là Phạm Văn Toàn, con ông Phạm Văn Uông, xã Hoành Sơn. Gia đình làm ăn sinh sống ở quê. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

             - Thứ tư là Cao Thị Huệ, sinh năm 1976. Năm 1993 đạt giải Nhất toàn quốc môn Văn THPT, được tặng danh hiệu Tài năng trẻ và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1997 tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội, năm 2007 tốt nghiệp Cao học nhận bằng Thạc sỹ Văn học. Từ năm 1997 đến nay dạy Văn ở Trường chuyên Lê Hồng Phong, thành phố Nam Định. Chồng là Đặng Văn Hải, thành phố Nam Định. Sinh được 1 con trai  và 1 con gái.

    12. 1.4.16 -         Ông Cao Văn Minh.

     Sinh ngày:    9 - 2 - 1966 (Bính Ngọ), xã Bạch Long.

     Ông là con trai cụ Cao Lương Sách. Học xong Cấp II ông ở lại quê nhà làm nghề sản xuất và kinh doanh muối, xã Bạch Long. Từ năm 2010

- 2018 làm Xóm, Đội trưởng 8 Thành Tiến, xã Bạch Long.

     Bà Phạm Thị Hiền.

     Sinh ngày:    24 - 8 - 1966 (Bính Ngọ).

      Bà là con gái cụ Phạm Văn Quý, xã Giao Yến. Làm nghề sản xuất và kinh doanh muối.

     Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

  Hai con trai:      - Trưởng là Cao Văn Dũng.

              - Thứ hai là Cao Văn Sỹ.

  Con gái:   

                - Cao Thị Quỳnh, sinh năm 1997. Năm 2015 tốt nghiệp THPT, học Trường CĐSPMN. TW. Năm 2017 - 2018 làm giáo viên Mầm non ở Quảng Ninh. Chồng là Nguyễn Văn Đại, con ông Nguyễn Văn Hải, xã Xuân Hùng, Xuân Trường. Hiện nay là chủ 2 cửa hàng Spa ở Giao Thuỷ.

 

          B - CHI THỨ HAI

 

12. 2.2.17-      Cao Công húy Trung Chính.

  Sinh năm:    Nhâm Ngọ (1942), thôn Cộng Hoà.

  Mất ngày:    15 - 2 năm Canh Dần (2010), thọ 69 tuổi. Bình tro để ở chùa Đình Thành, phường Tân Kiểng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

      Ông là con trai cụ Cao Trung Tránh. Từ năm 1954 theo mẹ vào làm ăn, sinh sống ở thành phố Sài Gòn. Gia đình ở SN 53, Đường 25, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.

     Bà Trần Thị Hoa.

  Sinh năm:    Đinh Hợi (1947).

  Bà quê ở ấp Thành An, xã Thành Trị, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Bà làm nội trợ và buôn bán nhỏ.

  Ông bà sinh được 7 con trai:

               - Trưởng là Cao Trung Hiếu.

               - Thứ hai là Cao Thành Đức.

               - Thứ ba là Cao Minh Phú.

               - Thứ tư là Cao Thế Minh.

               - Thứ năm là Cao Trọng Tuấn.

               - Thứ sáu là Cao Trần Hải.

               - Thứ bảy là Cao Thành Long.

 

 12. 2.2.18 -   Cao Công huý Văn Trọng, hiệu Phúc Trường.

  Sinh ngày:    9 - 11- 1956 (Bính Thân), thôn Cộng Hoà.

  Mất ngày:    14 - 6 năm Canh Tý (2020), thọ 65 tuổi.

  Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Ngọ. Năm 1976, tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Công tác ở ngành Công an, tỉnh Nam Định, phục vụ liên tục 32 năm, cấp hàm Trung tá. Năm 2008 về nghỉ hưu. Được khen thưởng: Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba và Huy chương Bảo vệ ANTQ. Gia đình ở SN 9, Ngõ 102, đường Mạc Thị Bưởi, thành phố Nam Định.  Năm 2014 ông tổ chức sửa chữa, nâng cấp nhà thờ của chi. Năm 2015 - 2016 ông tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

          Bà Trần Thị Hồng.

  Sinh năm:    Canh Tý (1960).

  Bà là con gái cụ Trần Thanh Mai, xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Làm Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Nam Định. Năm 2005 chuyển sang làm Phó Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh Nam Định. Được thưởng: Huân chương Lao động hạng Ba; Bằng khen của Thủ tưởng Chính phủ; Huy chương vì sự nghiệp Giải phóng Phụ nữ; Kỷ niệm chương: Tổng LĐLĐVN, Bộ LĐTBXH, Toà án Tối cao, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Chiến sỹ Trường Sơn. Huy hiệu 30 và 40 năm tuổi Đảng.

     Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                 - Cao Đình Trang.

  Con gái:     

                 - Cao Hồng Ngọc, sinh ngày 31 - 3 - 1993. Học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Tốt nghiệp năm 2016, làm việc ở Công ty TNHH An Huy, Thành phố Hà Nội. Chồng là Bùi Văn Thức con ông Bùi Văn Nghi, thôn Chanh Thượng, xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Nhà ở Số 24C, Ngõ 178, phố Quan Nhân, Q. Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

 12. 2.2.19 -          Ông Cao Văn Tôn.

 Sinh năm:    Nhâm Dần (1962), thôn Cộng Hoà.

    Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Ngọ. Còn nhỏ học tại quê hương. Năm 1969 vào ngành Công an, công tác trong ở Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh, cấp bậc Thiếu tá. Nghỉ hưu năm 2013. Được thưởng Huy chương Chiến sỹ vẻ vang: Nhất, Nhì, Ba.

      Gia đình ở SN 550, đường Hưng Phú, Phường 9, Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bà Nguyễn Thị Phượng.

 Sinh năm:    Kỷ Dậu (1969).

 Bà quê ở thành phổ Hồ Chí Minh.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

 Con trai:                 - Cao Quang Anh.

 Con gái:

                 - Cao Lan Anh, sinh ngày 22 - 5 - 1995. Học Trường Đại học Ngoại ngữ thành phố Hồ Chí Minh. Ra trường năm 2017. Hiện nay làm việc tại Lãnh sự quán của Thái Lan ở thành phố Hồ Chí Minh.

 12. 2.2.20 -          Ông Cao Văn Kính.

 Sinh ngày:    5 - 10 - 1967 (Đinh Mùi), thôn Cộng Hoà.

    Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung Ngọ. Năm 1982 tốt nghiệp Trường cấp II, xã Giao Tiến. Năm 1986 gia nhập Quân đội, công tác tại Cục Hậu cần, Tổng cục Hậu cần. Tháng 8 - 2008 về nghỉ theo chế độ 110 của Bộ Quốc phòng. Làm ăn, sinh sống ở thành phố Hà Nội.

     Gia đình ở Số 8, dẫy G, tổ dân phố Số 6, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

    Bà Hoàng Thị Liên.

 Sinh ngày:    17- 1 - 1972 (1971, Tân Hợi).

 Bà là con gái cụ Hoàng Bảo, xã Nhật Tân, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên.

 Ông bà sinh được 2 con trai:

                          - Trưởng là Cao Hoàng Anh.

                          - Thứ hai là Cao Hoàng Sơn.


 12. 2.2.21 -         Ông Cao Văn Tặng.

  Sinh năm:    Giáp Dần (1974), thôn Cộng Hoà.

  Ông là con trai thứ tư cụ Cao Trung Ngọ. Ông làm nông nghiệp và nghề sơn xây dựng tại quê nhà.

  Năm 2014 ông chỉ đạo sửa chữa, nâng cấp nhà thờ của chi.

     Bà Nguyễn Thị Đào.

  Sinh năm:    Đinh Tỵ (1977).

  Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Đoan, xã Xuân Phú, huyện Xuân Trường.  Từ năm 2009 làm việc tại Công ty TNHH MTV Khai thác công trình Thủy lợi Xuân Thủy.

  Ông bà sinh được 2 con gái:

               - Thứ nhất là Cao Thu Hà, sinh năm 2001. Chồng là Nguyễn

Xuân Trường, con ông Nguyễn Văn Lĩnh, Xóm 3, xã Giao Hà. Đã sinh được 1con trai.

              - Thứ hai là Cao Hà Phương, sinh năm 2008.


 12. 2.4.22 -         Ông Cao Văn Hùng.

  Sinh ngày:   9 - 9 - 1952 (Nhâm Thìn), Bệnh viện Thành phố Hải Phòng.

  Ông là con trai trưởng cụ Cao Hưng Lợi. Năm 1970 tốt nghiệp Trương cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1972 học ngành Trắc địa khóa 17,

Trường Đại học Mỏ Địa chất. Năm 1977 công tác ở phòng Kỹ thuật, Đoàn Đo đạc địa hình 1, Cục Đo đạc Bản đồ Nhà nước, thị trấn Kẻ Sặt, tỉnh Hải Dương. Năm 1978 công tác ở Trường Trung học Đo đạc và Bản đồ 2, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, làm giáo viên, Chủ nhiệm Bộ môn và Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của Trường. Năm 1981 công tác ở Đoàn Đo đạc địa hình 7, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1982 công tác ở Đoàn Đo đạc Bản đồ, thuộc Ban Quản lý Ruộng đất tỉnh Hà Nam Ninh, làm Trưởng phòng Đo đạc Bản đồ. Năm 1992 tách tỉnh về làm Trưởng phòng Kỹ thuật Đo đạc Bản đồ, Sở Địa chính tỉnh Nam Định (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường), cấp bậc chuyên viên chính: 8/9. Tháng 10 năm 2012 nghỉ hưu. Được tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, Kỷ niệm chương ngành Quản lý đất đai.

            Gia đình trước ở SN 96.I, Ô 17, phường Hạ Long thành phố Nam Định. Hiện nay ở Xóm 27, xã Giao Thiện.

    Năm 2013 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời 10) và năm 2014 xây dựng lăng mộ nhánh tổ Cao Hưng Lợi (đời 11). Năm 2015 - 2016 tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng. Ông tham gia biên soạn Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2022.

    Bà Vũ Thị Hồng Miến.

 Sinh năm:    Quý Tỵ (1953).

 Bà là con gái cụ Vũ Văn Ty, Xóm 21, xã Giao Thiện. Bà làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

 Ông bà sinh được 4 con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Ngọc Hân, sinh ngày 13- 8 - 1978. Năm 2000 tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Công tác ở Trung tâm Kỹ thuật công nghệ Địa chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, tỉnh Nam Định. Chồng là Nguyễn Quang Sự, con ông Nguyễn Quang Tý, xã Hợp Hưng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Số 5, Ngõ 206, đường Tô Hiến Thành, Thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

         - Thứ hai là Cao Thị Hồng Nhung, sinh ngày 04 - 5 - 1981. Học Cao đẳng Cắt may và Trung cấp đo đạc Bản đồ. Làm việc tại Trung tâm Địa chính Đô thị phía Nam, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay làm tự do. Chồng là Nguyễn Trường Khải, con ông Nguyễn Hoàng Tuấn, Phường 1, thị xã Ngã 5, tỉnh Sóc Trăng. Sinh được 1 con gái, 1 con trai. Gia đình ở Khóm 1, Phường 1, Thị xã Ngã 5, tỉnh Sóc Trăng.

         - Thứ ba là Cao Thị Thuận, sinh ngày 17- 7 - 1984. Năm 2007

tốt nghiệp Trường Đại học Thủy sản Nha Trang. Ra trường làm việc tại Công ty TNHH Thủy sản Thiên Mã, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Hiện nay làm việc ở Công ty Dầu gió Cây Búa, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chồng là Đoàn Minh Thới, con ông Đoàn Văn Xệch, Phường 5, thành phố Vũng Tàu. Sinh được 1 con gái, 1 con trai. Gia đình hiện nay ở thành phố Vũng Tàu.

         - Thứ tư là Cao Thị Thìn, sinh ngày 25- 10 - 1988. Học Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Khoa Đất đai và Môi trường. Hiện nay công tác tại Chi cục Môi trường, Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Nam Định. Chồng là Khương Văn Thanh, con ông Khương Văn Nghĩa, xã Nghĩa Châu, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Số 16, Ngách 66/7, đường Lưu Hữu Phước, phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

 

    12. 2.4.23 -          Ông Cao Bá Khoát.

  Sinh ngày:   6 - 7 - 1955 (Ất Mùi), Bệnh viện Thành phố Hải Phòng.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Hưng Lợi. Năm 1971 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1972 vào Quân đội, huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 19, Tỉnh đội Nam Hà, sau đi học tại Trường lái xe 255, Tổng cục Hậu cần. Tháng 11 - 1972 lái xe tại Sư đoàn Công binh 473, Đoàn 559 mở tuyến đường Đông Trường Sơn. Năm 1977 - 1982 học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng, chuyên ngành xe Quân sự. Năm 1982 ra trường là Kỹ sư xe Quân sự  công tác ở Phòng Kỹ thuật Trường Sỹ quan Phòng hóa, Binh chủng Hóa học. Năm 1986 công tác ở Phòng Xe máy, Cục Kỹ thuật, Binh chủng Hóa học. Năm 2004 làm Trưởng ban Lịch sử tổng kết ngành Kỹ thuật Hóa học. Năm 2008 được thăng cấp hàm Đại tá. Tháng 10 - 2009 về nghỉ hưu.

     Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì;

Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Chiến sỹ Giải phóng; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; Huy chương vì sự nghiệp Vận tải Quân sự; Kỷ niệm chương: Chiến sỹ Trường Sơn, Bộ đội Hoá học, Cựu Chiến binh Việt Nam; Huy hiệu 30 năm, 40 năm tuổi Đảng. Gia đình ở SN 37, Ngõ 93, phố Vương Thừa Vũ, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

     Năm 2013 ông hiến đất, tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời 10) và năm 2014 xây dựng lăng mộ nhánh tổ Cao Hưng Lợi (đời 11) ở xã Giao Thiện. Năm 2015 - 2016 ông làm Phó ban Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng. Ông tham gia biên soạn Gia phả họ Cao Trần năm 2018, Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.

         Bà Nguyễn Thị Ngọc Thao.

         Sinh ngày:    6 - 9 - 1954 (Giáp Ngọ).

          Bà là con gái cụ Nguyễn Hữu Dưỡng, thôn Mai Viên, xã Song Mai,

huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

  Năm 1972 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1972 - 1977 học Trường Đại học Dược Hà Nội, ra trường là Dược sỹ Cao cấp, làm việc ở Công ty Dược phẩm Trung ương I Hà Nội. Năm 1979 vào Quân đội, công tác tại Bệnh viện Dã chiến 4 thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần, ở thị xã Sơn Tây. Năm 1980 công tác tại Kho Quân y 708, ở huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Năm 1985 với cấp hàm Thượng uý xuất ngũ về Công ty Dược phẩm Trung ương I, Hà Nội. Năm 2009 nghỉ hưu.

 Được tặng thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Ba, Huy chương vì Sức khỏe Nhân dân.

    Ông bà sinh được 2 con gái:

        - Thứ nhất là Cao Hải Như, sinh ngày  21- 2 - 1983. Năm 2005 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế Trường Đại học KTQD Hà Nội, ngành QTKD Thương mại, làm việc ở Công ty Dược phẩm Trung ương I Hà Nội. Chồng là Tạ Quốc Khánh, con ông Tạ Việt Hồng, thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con gái, 1 con trai.

        - Thứ hai là Cao Quỳnh Liên, sinh ngày 1- 11 - 1985. Năm 2007 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, ngành Kinh tế đối ngoại, làm việc ở Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên WWF, Hà Nội. Chồng là Lê Thanh Nam, con ông Lê Đình Ba, thôn Thiết Đinh, xã Định Tường, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Phòng 1208, Tháp A, Toà nhà GREEN PARK - TOWER, Ngõ 6 đường Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

 

12. 2.4.24 -     Cao Công huý Quốc Đạt, hiệu Tâm Thiện.

 Sinh ngày:    24 - 6 - 1969 (Kỷ Dậu), xã Giao Thiện.

 Mất ngày:    23 - 10 năm Giáp Ngọ (2014), hưởng 46 tuổi.

 Mộ quy lăng của gia đình nghĩa trang ấp Phú Ninh, xã Giao Thiện.

    Ông là con trai cả, bà hai cụ Cao Hưng Lợi. Làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp ở quê. Gia đình ở Xóm 25, xã Giao Thiện.

    Năm 2013 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời 10) ở xã Giao Thiện.

    Bà Vũ Thị The.

 Sinh năm:    Đinh Mùi (1967).

 Bà là con gái cụ Vũ Văn Lô, xã Hồng Thuận. Làm nông nghiệp và

nội trợ gia đình.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

 Con trai:                   - Cao Trung Kiên.

 Con gái: 

               - Cao Thị Thu, sinh ngày 14 - 3 - 1992. Năm 2010 -  2013 học Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội. Hiện nay làm việc tại  thành phố Nam Định. Chồng là Đỗ Viết Kim, con ông Đỗ Đức Toàn ở  phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định. Sinh được 2 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Tổ 10, đường Thanh Bình, phường Lộc Hạ, Thành phố Nam Định.

 

 

 12. 2.4.25 -           Ông Cao Văn Sơn.

 Sinh ngày:     21- 8 - 1974 (Giáp Dần), xã Giao Thiện.

 Ông là con trai thứ hai, bà hai cụ Cao Hưng Lợi. Năm 1996 vào làm ăn, sinh sống bằng nông nghiệp, thôn Đồng Tâm, xã Buôn Triết, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

     Bà Tôn Nữ Bạch Yến.

  Sinh năm:    Nhâm Tý (1972).

  Bà là con gái cụ Tôn Thất Nhượng, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

  Ông bà sinh được: 3 con trai và 1 con gái.

  Ba con trai:       

      - Trưởng là Cao Văn Suất.

      - Thứ hai là Cao Văn Sắc.

      - Thứ ba là Cao Quốc Sinh.

  Con gái:    

               - Cao Nữ Yến Vy, sinh ngày 23 - 11 - 2002. Năm 2020 tốt nghiệp THPT. Từ năm 2021 học hệ đại học ở Học viện Ngân hàng Thành phố HCM.


 12. 2.5.26 -          Ông Cao Đức Triệu.

  Sinh ngày:     2 - 11 - 1959 (Kỷ Hợi), thôn Quyết Tiến.

      Ông là con trai cụ Cao Văn Giới. Năm 1979 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1979 - 1985 học ở Trường Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp ra trường là Bác sỹ. Từ năm 1986 - 1993, công tác ở Sở Y tế thành phố Hải Phòng. Năm 1993 ông bà sang Cộng hòa Liên bang Nga làm kinh doanh, là thương nhân thành đạt. Năm 2015 về làm ăn ở Việt Nam. Gia đình ở Phòng 1604, NO1 - T2, khu Ngoại giao đoàn, Thành phố Hà Nội.

     Năm 2015 - 2016 ông tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

     Bà Vũ Thị Thanh Diệp.

  Sinh ngày:    10 - 3 - 1964 (Giáp Thìn).

  Bà là con gái cụ Vũ Quốc Bình, thôn Việt Dũng. Năm 1981 tốt nghiêp. Trường cấp III Thái Phiên, thành phố Hải Phòng. Năm 1981 - 1986 học Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Khoa tiếng Nga. Năm 1986 - 1992 làm phiên dịch ở Công ty Da dầy Hải Phòng. Năm 1993 cùng chồng sang làm ăn ở Cộng hòa Liên bang Nga. Năm 2010 trở về Việt Nam.

 Ông bà sinh được 3 con gái:

                  - Thứ nhất là Cao Thị Hương Giang, sinh ngày 11- 6 - 1989. Học Đại học tại nước Anh. Hiện nay làm việc ở Công ty CELTRAL GRUP Thái Lan tại thành phố Hồ Chí Minh.

                  - Thứ hai là Cao Ngọc Hải Hà, sinh ngày 19 - 9 - 1997. Học Trường Đại học RMIT tại Việt Nam, năm 2019 tốt nghiệp. Hiện nay làm việc ở Công ty Thời trang tại Hà Nội.

                    - Thứ ba là Cao Thùy Dương, sinh ngày 20 - 8 - 1999. Học Đại

học tại Học viện Tài chính Hà Nội, năm 2021 tốt nghiệp. Hiện nay làm việc ở Công ty VIETTEL tại Hà Nội.

    Ông có 1 con trai:      - Cao Trần Bảo Long.

 

 

12. 2.5.27 -        Ông Cao Đông Thiện.

 Sinh ngày:   14 - 10 - 1960 (Canh Tý), xã Giao Thiện.

          Ông là con trai cụ Cao Văn Tiu. Tháng 3 - 1978 cùng gia đình từ xã

Giao Thiện chuyển vào lập nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, thời gian đầu làm ruộng, sau chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Gia đình hiện nay ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

    Bà Đoàn Thị Xuyên.

 Sinh năm:    Tân Sửu (1961).

 Bà là con gái cụ Đoàn Văn Cát, xã Giao Hà, làm nông nghiệp.

 Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.

 Hai con trai:      

        - Trưởng là Cao Đông Cương.

        - Thứ hai là Cao Thiên Tài.

 Ba con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Gấm, sinh ngày  04 - 3 - 1984. Chồng là Trần Văn Sơn, con ông Trần Nhất Sinh, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Sinh được 2 con gái.

        - Thứ hai là Cao Thị Ngọc Huyền, sinh ngày 14 - 5 - 1994. Chồng là Nguyễn Văn Tuyên, con ông Nguyễn Văn Lanh, xã Xuân Châu, huyện Xuân Trường. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Thúy Hằng, sinh ngày 10 - 6 - 1997. Chồng

là Ngô Văn Trong, con ông Ngô Văn Sáng, quê ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Sinh được 1 con gái.

 

 

         C - CHI THỨ BA

 

 12. 3.1.28 -         Ông Cao Trần Dưỡng.

 Sinh ngày:    24 - 12 - 1954 (Giáp Ngọ), thôn Toàn Thắng.

 Ông là con trai trưởng cụ Cao Xuân Phiêu, còn có tên là Hồi. Năm 1974 vào Quân đội. Năm 1975 - 1977 ở Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Trung đoàn Gia Định, với các chức vụ: Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội phó, tham gia giải phóng Sài Gòn và Lực lượng Quân quản Thành phố HCM. Năm 1977 lên Xa Mát, tỉnh Tây Ninh bảo vệ Biên giới. Năm 1979 tham gia giải phóng Campuchia. Năm 1979 - 1980 học Trường Sỹ quan Lục quân 2, ra làm giáo viên Trường Quân chính H35, Bộ tư lệnh Thành phố HCM. Năm 1980 - 1984 làm Trợ lý tác chiến Trung đoàn 770, sau đó làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung Đoàn 770. Năm 1985 - 1988, học viên Trường Chuyên gia Quân sự 481, học xong đi làm chuyên gia Quân sự ở Campuchia, cấp bậc Đại úy, Trung đoàn phó. Năm 1989 về nước công tác ở BCH Quân sự  thành phố HCM, cấp bậc Thiếu tá Phó Tham mưu trưởng, Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Năm 1991 về nghỉ hưu và tham gia công tác ở phường: Phó Chủ tịch Hội CCB, Phó Chủ tịch HĐND, Phường Đội trưởng. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ; Huân chương Chiến công, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc; Huân chương CSVV hạng: Nhất, Nhì, Ba; Kỷ niệm chương Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Kỷ niệm chương vì An ninh Tổ Quốc; Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng. Gia đình ở 260/3 Tô Ngọc Vân, phường Linh Đông, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

     Năm 2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ của chi họ.

     Bà Hoàng Thị huý Liên.

     Sinh năm:    Bính Thân (1956), thôn Đoàn Kết

     Mất ngày:   20 - 3 năm Đinh Hợi (2007), hưởng 52 tuổi.

     Mộ an táng ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.  

      Bà là con gái cụ Hoàng Văn Thiệu, thôn Đoàn Kết. Đương thời làm                                                                                                                                                                                                                      

ruộng và buôn bán nhỏ ở quê. Năm 1989 cùng con chuyển vào quận Thủ Đức (nay là TP Thủ Đức), thành phố Hồ Chí Minh, nơi chồng công tác, làm ăn, sinh sống bằng nghề buôn bán nhỏ.

 Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.

         Ba con trai:    

                               - Trưởng là Cao Văn Đại (1981 - 17.7.1991).

                               - Thứ hai là Cao Trần Dương.

                               - Thứ ba  Cao Văn Bảy (1997 - 26.3.1997).

 Ba con gái:

            - Thứ nhất là Cao Thị Thúy, sinh năm 1984. Làm ở Bệnh viện Da liễu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Đặng Kiều Hưng, con ông Đặng Văn Thượng, tỉnh Hải Dương. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

           - Thứ hai là Cao Thị Thảo, sinh năm 1987, làm công nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Trương Hoài Phong, con ông Trương Việt Sơn ở Tân Hạnh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Sinh được 1 con gái.

            - Thứ ba là Cao Thị Thắm, sinh năm 1993. Làm công nhân tại thành phố Hồ Chí Minh.

 Bà kế Hồ Thị Phương.

 Sinh năm:    Bính Tỵ (1966).

 Bà là con gái cụ Hồ Xuân Diên, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1990 - 2021 làm việc cho nhiều công ty tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2022 về nghỉ hưu.

 Ông bà sinh được 1 con trai:      - Cao Thanh Bình.


    12. 3.1.29 -           Ông Cao Văn Hiền.

 Sinh ngày:   26 - 10 - 1963 (Quý Mão), thôn Toàn Thắng.

 Ông là con trai thứ hai cụ Cao Xuân Phiêu. Năm 1982 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1983 - 1988 học Trường Đại học

Bách khoa Hà Nội. Năm 1991 - 1996 làm việc ở Nhà máy Phốt phát Long Thành  Đồng Nai, Công ty Phân bón miền Nam. Từ năm 1996 đến nay làm

việc cho Liên doanh dầu khí VIETSOPETRO, là Kỹ sư trưởng Cơ khí động

 lực. Gia đình ở  636/1/9, Trương Công Định, thành phố Vũng Tàu.

    Năm 2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ của chi họ.

 

 Bà Ngô Thị  Hằng.

         Sinh ngày:   15 - 1 - 1968 (1967, Đinh Mùi).

         Bà quê ở Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

          Năm 1993 tốt nghiệp Cử nhân Anh văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1994 đến nay làm việc ở Công ty Đăng kiểm Hàng hải LOYDS của Anh.

         Ông bà sinh được 2 con trai:

                            - Trưởng là Cao Tùng Sơn.

                            - Thứ hai là Cao Hoàng Bách.

 

 

 12. 3.1.30 -           Ông Cao Song Hảo.

Sinh ngày:    27 - 7 - 1967 (Đinh Mùi), thôn Toàn Thắng.

Ông là con trai thứ ba cụ Cao Xuân Phiêu. Gia đình buôn bán nhỏ ở

Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2015 lên tỉnh Cao Bằng làm nghề buôn bán tại thị trấn Hòa Thuận, huyện Quảng Hoà. Năm 2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ của chi.

     Bà Trần Thị Thúy Nhâm (đã ly hôn).

Sinh năm 1972, xã Giao Nhân.

Ông bà sinh được 2 con trai:

                 - Trưởng là Cao Huy Hoàng.

                 - Thứ hai là Cao Thế Huy.

  Bà hai Ngan Thị Bằng.

  Sinh ngày:    10 - 10 - 1972 (Nhâm Tý).

  Bà là con gái cụ Ngan Văn Pheo, làm nghề buôn bán ở thị trấn Hoà Thuận, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng.

 

 

     12. 3.1.31 -       Cao Công huý Ngọc Hải.

Sinh năm:     Kỷ Dậu (1969), thôn Toàn Thắng.

Mất ngày:    16 - 12 năm Ất Dậu (2005), hưởng 37 tuổi.

Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm 5 Giao Tiến.

Ông là con trai thứ tư cụ Cao Xuân Phiêu, chưa lập gia đình. Năm 2001 ông tham gia đóng góp xây dựng lăng mộ của chi.

 

 12. 3.2.32 -          Ông Cao Văn Chung.

Sinh năm:    Canh Tý (1960), xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái.

Ông là con trai cụ Cao Văn An. Năm 1979 - 1982 ông tham gia Quân đội. Gia đình làm nông nghiệp ở thôn Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

     Bà Vũ Thị Định.

Bà quê ở xã Giao Tiến, làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.

Ông bà sinh được 4 con gái:

             - Thứ nhất là Cao Thị Lượng, sinh năm 1984. Chồng ở xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

            - Thứ hai là Cao Thị Dung, sinh năm 1986. Chồng ở xã Minh Quán, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Sinh được 1 con gái.

             - Thứ ba là Cao Thị Thúy, sinh năm 1988. Làm công nhân Công ty Lâm sản Yên Bái.

             - Thứ tư là Cao Thị Thịnh, sinh năm 1990. Làm công nhân da dầy ở tỉnh Bình Dương.

 

        D - CHI THỨ TƯ

 

12. 4.1.33 -    Cao Công húy Trung Toản, hiệu Minh Mẫn.

Sinh năm:     Bính Dần (1926), thôn Thống Nhất.

Mất ngày:    19 - 7 năm Mậu Tý (1948), hưởng 23 tuổi.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Ngọc Xướng. Năm 1945 ông tham gia Cách mạng ở tỉnh Yên Bái, đến năm 1948 hy sinh và mất tích ở Yên Bái.

     Bà Vũ Thị Nhuần.

Bà là con gái cụ Vũ Văn Bân, thôn Phấn Đấu. Chưa có con, ông mất, bà đi tái giá ở Thanh Hóa.

 

12. 4.1.34 -    Cao Công húy

                          Trung Tôn, hiệu Phúc Tường.

Sinh năm:    Canh Ngọ (1930), thôn Thống Nhất.

Mất ngày:    16 - 4 năm Quý Mùi (2003), thọ 74 tuổi.

         Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Ngọc Xướng. Năm 1947 - 1954 ông tham gia lực lượng du kích ở địa phương chống thực dân Pháp. Được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Đương thời ông rất giỏi nghề thợ mộc. Năm 1981 - 1985 ông tổ chức quy tập mộ và xây dựng bước đầu lăng của chi. Năm 2001 tổ chức nâng cấp lăng mộ của chi. Năm 1996 ông hiến đất và tổ chức xây dựng nhà thờ chi lần thứ nhất.

     Bà Bùi Thị húy Minh, hiệu Diệu Mẫn.

Sinh năm:    Tân Mùi (1931).

Mất ngày:   15 - 10 năm Giáp Ngọ (2014), thọ 84 tuổi.

Mộ quy lăng cùng với ông.

Bà là con gái cụ Bùi Văn Chương, xã Hoành Sơn. Từ năm 1947 - 1949 tham gia du kích chống thực dân Pháp ở xã Hoành Sơn, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen tham gia Kháng chiến chống Pháp.

Ông bà sinh được: 4 con trai và 5 con gái.

  Bốn con trai:     - Trưởng là Cao Quang Chức.

       - Thứ hai là Cao Xuân Vĩnh.

       - Thứ ba là Cao Xuân Dương.

       - Thứ tư là Cao Xuân Dưỡng.

  Năm con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Thanh, sinh năm 1953. Chồng là Vũ Văn Hoan, con ông Vũ Văn Hỷ, cùng xã. Sinh được 3 con trai, 1 con gái.

         - Thứ hai là Cao Thị Hòa, sinh năm 1955. Chồng là Nguyễn Văn Hiệp, con ông Nguyễn Thế Phàn, cùng thôn. Sinh 2 con trai, 3 con gái.

         - Thứ ba là Cao Thị Lan, sinh năm 1960. Chồng là Hoàng Văn

Đệ, con ông Hoàng Cuông, cùng thôn. Sinh được 1 con trai, 5 con gái.

        - Thứ tư là Cao Thị Cúc, sinh năm 1966. Chồng là Doãn Văn

Ánh, con ông Doãn Văn Ry, cùng thôn. Sinh được 2 con trai, 1 con gái.

         - Thứ năm là Cao Thị Diệp. Chồng là Phạm Văn Dung, con ông Phạm Văn Kỷ, cùng thôn. Sinh được 1 con trai, 2 con gái.


 12. 4.1.35 -   Cao Công huý Hữu Nghị, hiệu Phúc Hội.

Sinh năm:    Tân Tỵ (1941), thôn Thống Nhất.

         Mất ngày:    24 - 8 năm Canh Tý (2020), thọ 80 tuổi.

Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

      Ông là con trai thứ ba cụ Cao Ngọc Xướng. Năm 1965 ông tham gia Quân đội, năm 1973 về nghỉ theo chế độ bệnh binh. Được thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Ba. Ông rất giỏi nghề thợ mộc.

          Bà Hoàng Thị Vinh.

Sinh năm:    Tân Tỵ (1941).

Bà là con gái cụ Hoàng Văn Môn thôn Thống Nhất, làm nông nghiệp.

Hai cụ sinh được: 3 con trai và 1 con gái.

  Ba con trai:       

     - Trưởng là Cao Thanh Bình.

     - Thứ hai là Cao Thanh Thường.

     - Thứ ba là Cao Trường Giang.

   Con gái:     

                    - Cao Thị Vân, sinh năm 1980. Chồng là Đỗ Văn Hinh, con ông Đỗ Văn Hoán, thôn Trung. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

     Bà hai Nguyễn Thị Sinh.

Sinh năm:    Giáp Ngọ (1954).

Bà là con gái cụ Nguyễn Tường, xã Đồng Văn, Tân Kỳ, Nghệ An.

Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

  Hai con trai:      

     - Thứ nhất là Cao Thanh Sơn.

     - Thứ hai là Cao Thanh Nam.

  Con gái:   - Cao Thị Văn, sinh năm 1988.

 

 

12. 4.1.36 -         Ông Cao Anh Long.

Sinh ngày:    7 - 8 - 1940 (Canh Thìn), Bạch Mai, Hà Nội.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Xương. Năm 1959 - 1960, tốt

nghiệp Trường cấp III Lam Sơn, Thanh Hóa. Học chuyên tu Trường Ngoại ngữ Trung ương Hà Nội, Khoa tiếng Trung sau học Trường ĐHNN I Hà Nội. Năm 1964 tốt nghiệp Kỹ sư Nông nghiệp dạy ở Trường Trung cấp NLTW. Năm 1967 - 1975 giảng viên Trường ĐHNN II Hà Bắc. Năm 1975 - 1984 giảng viên Trường ĐHNN I Hà Nội. Năm 1984 - 1987 làm chuyên gia tại nước Cộng hòa Mozambique. Năm 1987 - 2001 là giảng viên chính

Trường ĐHNN I Hà Nội, kiêm nhiệm Phó Trưởng phòng và Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học của trường. Năm 1990 lấy bằng Tiến sỹ Nông nghiệp. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, Huy chương vì sự phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Huy chương vì sự Khuyến học Việt Nam. Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng.

          Gia đình  đã từng ở SN 2, Đường Z, tổ dân phố Nông Lâm, thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Từ năm 2020 gia đình ông bà chuyển về: Tòa nhà Park 12 tầng 12A, phòng 12B. Khu đô thị Vinhome Times City, phường Mai Động quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

     Bà Nguyễn Thị Nhiệm.

Sinh năm :    Đinh Hợi (1947).

Bà quê thôn Trinh Tiết, xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Là Kỹ sư  Nông nghiệp. Từ năm 1966 - 2002 liện tục 36 năm công tác ở Bộ môn: Rau - Hoa - Quả, Bộ môn Di truyền - Chọn giống, Khoa Nông học, Trường ĐHNN I Hà Nội. Được khen thưởng: Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.

Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.

Hai con trai:        - Trưởng là Cao Bảo Anh.

               - Thứ hai là Cao Việt Anh.

 Con gái:   

                - Cao Thị Quỳnh Anh, sinh 1976. Cử nhân Kinh tế, ngành QTKD, Trường Đại học Thương mại Hà Nội. Làm Giám đốc Công ty cổ phần Thiết kế Kỹ thuật cao, đường Nguyễn Văn Linh, quận Long Biên, Hà Nội. Chồng là Nguyễn Văn Tuấn. Gia đình ở khu đô thị Việt Hưng, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con trai, 2 con gái.

 

 12. 4.1.37 -           Ông Cao Đức Hải.

Sinh ngày: 22 -  4 - 1946 (Bính Tuất), huyện Nông Cống, Thanh Hóa.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Xương. Năm 1966 vào Quân đội ở ngành Tình báo Kỹ thuật Quân sự: Phòng 2- B4, B5 Quân khu Bình - Trị - Thiên. Năm 1977 chuyển ngành về làm việc ở Xí nghiệp Chế biến cung cấp Lâm sản Thanh Hóa. Năm 2000 về nghỉ hưu, sau đó làm việc cho Công ty Bảo hiểm PRUDENTAL, Thanh Hóa. Từ năm 1992 - 2000 học ở Trường Đảng Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Ái Quốc, tỉnh Thanh Hóa. Được thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Hai, 2 Huân chương Chiến công hạng Ba. Kỷ niệm chương Tổng tiến công của Chính phủ CMLT miền Nam, Việt Nam. Kỷ niệm chương của Quân khu Bình - Trị - Thiên. Chiến sỹ thi đua Quyết thắng. Huy chương vì sự nghiệp Bảo hiểm Nhân thọ. Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng. Gia đình ở SN 15/449, đường Bà Triệu, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá.

      Bà Đỗ Thị Dung.

 Sinh ngày:   10 - 10 - 1951 (Tân Mão).

 Bà quê xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Từ năm 1968 - 1993 là giáo viên Tiểu học tại xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1994 về nghỉ hưu.

 Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

   Con trai:                     - Cao Thế Anh.

   Ba con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Vân, sinh năm 1974. Năm 1994 tốt nghiệp Cử nhân Văn chương Trường Đại học Hồng Đức Thanh Hóa. Làm giáo viên THCS, xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Chồng là Hoàng Văn Ninh. Gia đình ở xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Sinh được 2 con gái.

         - Thứ hai là Cao Thị Nga, sinh năm 1976. Năm 1996 tốt nghiệp Cử nhân Văn chương Trường Đại học Sư phạm. Làm giáo viên Trường Thực hành Sư phạm thuộc Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Chồng là Lê Khai, xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở thành phố Đà Nẵng.

        - Thứ ba là Cao Thị Mai Anh, sinh năm 1984. Năm 2006 tốt

nghiệp hệ Cao đẳng, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, dạy học ở Trường THCS Điện Biên II, thành phố Thanh Hóa.

 

12. 4.1.38 -           Ông Cao Đức Dũng.

Sinh ngày:  1 - 1 - 1954 (Giáp Ngọ), huyện Nông Cống, Thanh Hóa.

Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Xương. Năm 1973 tốt nghiệp Trường cấp III Nông Cống vào Quân đội, ở đơn vị E231, F365. Năm 1973 - 1977 giáo viên G16 Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân. Năm 1977 - 1981 học Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm 1981 - 1994 là giảng viên, Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Chính trị Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Nẵng (sau là Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng). Năm 1995 - 1998 học Khoa Triết thuộc Viện Triết học Hà Nội, tốt nghiệp Thạc sỹ. Từ năm 1999 làm Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Tham gia 5 khóa BCH Đảng bộ trường: Khóa I là Bí thư, các khóa còn lại là Phó Bí thư. Chủ tịch hội Cựu chiến binh của trường. Nhiều khóa làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Công đoàn trường. Được khen thưởng: Huy chương vì Thế hệ trẻ, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, Huy chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn, Kỷ niệm chương công tác Tổ chức, Kỷ niệm chương Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng. Gia đình ở thành phố Đà Nẵng.

      Bà Trần Thị Hạnh.

 Sinh ngày:   2 - 2 - 1958 (Mậu Tuất).

 Bà quê ở thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Năm 1981 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Giáo dục Chính trị. Năm 1981 - 1994 giảng viên Trường CĐSP Đà Nẵng. Từ năm 1994 giảng viên Khoa Kinh tế, Đại học Kinh tế thuộc Trường Đại học Đà Nẵng. Năm 1998 lấy bằng Thạc sỹ Triết học tại Viện Triết học Hà Nội. Được khen thưởng: Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:            - Cao Đức Anh.

  Con gái:   

             - Cao Thị Hạnh Chi, sinh năm 1984. Học Khoa Trung văn, Trường Đại học Ngoại ngữ, thuộc Đại học Đà Nẵng. Làm việc tại Ban Quản lý dự án Thủy điện sông Hinh, tỉnh Quảng Ngãi. Chồng là Trần Quang Tuấn, Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ở Thành phố Quy Nhơn.

 

           Đ - CHI THỨ NĂM

  12. 5.1.39 -        Ông Cao Quang Bình.

Sinh năm:    Giáp Ngọ (1954), thôn Cộng Hoà.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Đinh Ruy. Năm 1973 - 1978 ông làm

công nhân xây dựng ở Khu Gang thép Thái Nguyên. Sau về quê làm nghề

thợ xây và làm nông nghiệp. Năm 1980 - 1985 làm Thư ký Đội sản xuất Số 8 HTX Nông nghiệp Quyết Tiến, xã Giao Tiến.

         Năm 2000 cùng các em tổ chức xây dựng lăng mộ của chi. Năm 2015

cùng các con tổ chức xây dựng nhà thờ của chi trên đất của gia đình. Năm

2015 - 2016 tham gia Ban Kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

     Bà Lê Thị Sò.

Sinh năm:    Quý Tỵ (1953), thôn Quyết Thắng.

Bà là con gái cụ Lê Huy Kỳ, thôn Quyêt Thắng. Năm 1973 - 1978 làm công nhân xây dựng ở Khu Gang thép Thái Nguyên. Sau về làm nông nghiệp và nội trợ gia đình ở quê.

Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.

  Bốn con trai:

    - Trưởng là Cao Đinh Dương.

    - Thứ hai là Cao Đinh Dinh.

    - Thứ ba là Cao Đinh Doanh.

    - Thứ tư là Cao Đinh Giang.

  Con gái: 

               - Cao Thị Ánh, sinh năm 1974. Chồng là Nguyễn Văn Thám, con ông Nguyễn Văn Kinh, xã Xuân Phú, huyện Xuân Trường. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.

 

12. 5.1.40 -          Ông Cao Đình Ban.

Sinh năm:     Bính Thân (1956), thôn Cộng Hoà.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đinh Ruy. Năm 1975 vào Quân đội, tham gia chiến đấu ở chiến trường tỉnh Bình Dương. Năm 1987, 1988 chiến

đấu bảo vệ biên giới phía Bắc ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Đơn vị:

Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, cấp bậc Đại úy. Năm 1990 về nghỉ theo chế độ Bệnh binh loại 2. Làm nghề thợ xây dựng và nông nghiệp ở quê. Khen thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhì, hạng Ba; Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

           Năm 2000 cùng với anh, chị, em tổ chức xây dựng lăng mộ của chi. Năm 2015 - 2016 tham gia tốp thợ xây dựng Hoạt Tế Đường.

     Bà Hoàng Thị Đoài.

Sinh năm:    Mậu Tuất (1958), thôn Công Hoà.

Bà là con gái cụ Hoàng Văn Kỳ thôn Cộng Hòa. Làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con gái.

  Con trai:                 - Cao Đình Bản.

  Hai con gái:

            - Thứ nhất là Cao Thị Huệ, sinh năm 1986. Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, ngành Công nghệ Thông tin, làm kinh doanh buôn bán tại gia đình phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội. Chồng là Tạ Huy Hoàng, con ông Tạ Văn Kiểm ở phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Sinh được 2 con trai, 1 con gái.

            - Thứ hai là Cao Thị Hương, sinh năm 1988. Học Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Làm việc ở Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông VIETTEL. Chồng là Nguyễn Văn Khải, con ông Nguyễn Văn Hoàn, xã Xuân Phú, huyện Xuân Trường. Sinh được 2 con gái.

  

     12. 5.1.41 -        Ông Cao Ngọc Phong.

          Sinh năm:    Quý Mão (1963), thôn Cộng Hoà.

           Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đinh Ruy. Tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thuỷ. Làm nghề thợ xây dựng và làm nông nghiệp ở quê.

      Năm 2000 ông cùng các anh, chị tổ chức xây dựng lăng mộ của chi. Năm 2015 - 2016 ông là một trong các thợ chính tham gia xây dựng Hoạt Tế Đường và là Trưởng nhóm thợ phụ trách phần xây Hoạt Tế Lăng.

          Bà Hoàng Thị Ánh.

Sinh năm:    Ất Tỵ (1965), thôn Cộng Hoà.

Bà là con gái cụ Hoàng Văn Thu, thôn Cộng Hòa.

Tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy, làm nghề may mặc và làm nông nghiệp ở quê.

Ông bà sinh được 2 con gái:

                  - Thứ nhất là Cao Thị Nhung, sinh năm 1990. Năm 2008 - 2012 học Trường Đại học KTQD Hà Nội, bằng Cử nhân, làm việc ở Tập đoàn Viễn thông MOBIFONE. Chồng là Lê Văn Hiếu, con ông Lê Văn Huấn xã Phú Lâm, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Sinh được 1 con trai.

                - Thứ hai là Cao Thị Ngọc, sinh năm 1994. Năm 2012 - 2016 học Trường Đại học KTQD, tốt nghiệp bằng Cử nhân, làm việc ở Công ty Chứng khoán VP BANK. Chồng là Phạm Anh Dân, con ông Phạm Anh Du, ở xã Hồng Thuận, huyện Giao Thuỷ. Sinh được 1 trai.

ĐỜI THỨ MƯỜI BA

             A – CHI TRƯỞNG


13. 1.1.1 -           Ông Cao Trọng Hiền.

Sinh ngày:    27  -  11 -  1949  (Kỷ Sửu) tại xã Vũ Lăng, huyện Tiền

Hải, tỉnh Thái Bình.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1967 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Lào Cai. Năm 1967 - 1972  học Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội, Khoa Cơ khí ô tô. Năm 1972 tốt nghiệp là Kỹ sư Cơ khí ô tô, ở lại trường làm giảng viên Bộ môn Cơ khí ô tô. Năm 1982 - 1986 đi nghiên cứu và làm luận án Tiến sỹ ở Tiệp Khắc. Từ năm 1986 đến khi nghỉ hưu công tác ở Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Đã giữ các chức vụ: Phó Trưởng Bộ môn rồi Trưởng Bộ môn Cơ khí ô tô. Từ năm 1996 kiêm Giám đốc Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường Giao thông. Được phong Phó Giáo sư năm 1996. Từ năm 2004 là Viện trưởng Viện Khoa học và Môi trường Giao thông, kiêm Trưởng Bộ môn Kỹ thuật Môi trường. Được khen thưởng: Nhà giáo Ưu tú, Huân chương Lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương vì sự nghiệp

Giáo dục Đào tạo. Gia đình ở Số nhà 9, Ngõ 97, đường Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội. Năm 2013 đến ở nhà chung cư làng Việt kiều châu Âu, phường Mộ Lao, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông đầu tư và tổ chức xây dựng lăng mộ gia đình (từ đời thứ 12), tại nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng Ba Vì, Hà Nội.

    Bà Nguyễn Thị huý Mỹ.

         Sinh ngày:    29 - 5 - 1949 (Kỷ Sửu), thôn Dọc, xã Liên Mão.

Mất ngày:    8 - 8 năm Mậu Tý (2008), thọ 60 tuổi.

Mộ quy lăng gia đình ở nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng Ba Vì, Hà Nội. Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Công, thôn Dọc, xã Liên Mão, huyện

Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1967 tốt nghiệp cấp III. Năm 1967 - 1972 học Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Khoa tiếng Anh. Năm 1972 - 1995 làm việc ở Viện Thiết kế máy Nông nghiệp Hà Nội, thuộc Bộ Công nghiệp. Năm 1995 về nghỉ hưu.

Ông bà sinh được: 1 con trai  và 1 con gái.

  Con trai:                 - Cao Minh Quý.

  Con gái:

           - Cao Thị Phương Thảo, sinh ngày 7- 12 - 1980. Tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, Thạc sỹ Kinh tế Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội, ở lại trường làm giảng viên Bộ môn Quản lý dự án Giao thông Vận tải. Chồng là Bùi Ngọc Dũng quê ở Hà Nội. Sinh được 1 con trai. Gia đình ở chung cư làng Việt kiều châu Âu, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội.

  Bà kế:  Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

  Sinh ngày:   11 - 12 - 1973 (Quý Sửu).

  Bà là con gái cụ Nguyễn Ngọc Kim xã Y Can, Trấn Yên, Yên Bái.

  Ông bà sinh được 1 con gái:

                     - Cao Phương Vy, sinh ngày 30 - 11 - 1999, ở thành phố Hà Nội. Tốt nghiệp THPT năm 2017, học Trường Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa tiếng Đức. Năm 2022 tốt nghiệp Đại học, hiện nay làm việc tại Trung tân Ngoại ngữ Hà Nội.

  

     13. 1.1.2 -          Ông Cao Văn Tham.

Sinh ngày:    11- 7 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng Hoà.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1976 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1978 - 1982 tham gia Quân đội. Năm 1982 - 1987 học Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Từ năm 1987 - 2017 làm việc ở Công ty APATIT  Lào Cai: là Cử nhân Kinh tế, Phó Giám đốc Xí nghiệp Vận tải, Phó Trưởng phòng Kế hoạch Thị trường của Công ty. Năm 2017 nghỉ hưu. Gia đình ở SN 119, đường Đặng Thái Mai, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai.

     Ông tham gia biên soạn Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2022.

Bà Phạm Thị Chén.

Sinh ngày:    13 - 12 - 1964 (Giáp Thìn).

Bà là con gái cụ Phạm Ngọc Hiền, xã Yên Định, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Lào Cai năm 1983. Năm

1984 - 1988 học tại Học viện TC Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Kế toán. Từ năm 1989 làm việc ở Công ty APATIT Lào Cai, năm 2020 nghỉ hưu.

Ông bà sinh được 2 con trai:

              - Trưởng là Cao Đức Huy.

              - Thứ hai là Cao Việt Hoàng.

     13. 1.1.3 -         Ông Cao Quốc Hóa.

Sinh ngày:    5 - 3 - 1960 (Canh Tý), thôn Cộng Hoà.

     Ông là con trai thứ ba cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1979 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1982 làm công nhân Công ty APATIT Lào Cai. Năm 1984 - 1987 học Trường Trung cấp Kinh tế Hóa chất Bắc Ninh. Năm 1987 - 2005 công tác tại Công ty APATIT Lào Cai, làm Kế toán trưởng Xí nghiệp Cơ điện thuộc Công ty. Năm 2003 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 2005 về nghỉ và mở Công ty kinh doanh vật tư điện, nước ở thành phố Lào Cai. Gia đình ở SN 605A, đường Hoàng Liên, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai.

    Bà Lê Thị Anh Đào.

         Sinh ngày:    12 - 7- 1967 (Đinh Mùi).

          Bà là con gái cụ Lê Xuân Diệp, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Năm 1985 tốt nghiệp Trường THPT Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Năm 1990 tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Yên Bái. Từ năm 1991 đến nghỉ hưu năm 2018, làm giáo viên THCS, xã Xuân Giao, huyện Bảo Thắng và thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Ông bà sinh được 2 con trai:

               - Trưởng là Cao Việt Hùng.

               - Thứ hai là Cao Thanh Tùng.

  

 13. 1.1.4 -          Ông Cao Văn Viên.

Sinh ngày:    2 - 1 - 1966 (Ất Tỵ, 1965), thôn Cộng Hoà.

Ông là con trai thứ tư cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1983 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1983 - 1987 học Đại

học Ngân hàng, Hà Nội. Năm 1987 làm việc ở Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh

Hoàng Liên Sơn, khi tách tỉnh về làm việc ở Ngân hàng NN&PTNT tỉnh Lào Cai. Cử nhân Ngân hàng, Trưởng phòng Tin học, Trưởng phòng Kiểm tra, Phó Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT Chi nhánh Cam Đường, Lào Cai. Gia đình ở SN 24, phố Lê Thị Hồng Gấm, phường Phố Mới, Thành phố Lào Cai. Năm 2020 chuyển về nhà mới ở Tổ 21, phường Bắc Cường, Thành phố Lào Cai.

         Bà Vũ Thị Thùy Linh.

          Sinh ngày:    4 - 8 - 1984 (Giáp Tý).

          Bà là con gái cụ Vũ Quang Minh quê gốc ở huyện Trấn Yên, tỉnh

Yên Bái sau gia đình chuyển đến ở thị trấn huyện Mường Khương, tỉnh Lào

Cai. Năm 2003 tốt nghiệp Trường THPT huyện Mường Khương. Năm 2004 - 2006 học hệ Trung cấp Học viện Ngân hàng, Phân hiệu Sơn Tây. Từ năm 2008 đến nay làm việc ở Ngân hàng NN&PTNN thành phố Lào Cai. Tốt nghiệp Cử nhân Tài chính Ngân hàng, Học viện Tài chính năm 2012.

          Ông bà đã sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

          Con trai:                     - Cao Kỳ Long.

          Con gái:      - Cao Ngân Hà.

 

 

 13. 1.1.5 -        Ông Cao Quốc Trinh.

          Sinh ngày:   2 - 9 - 1967 (Đinh Mùi), thôn Xuân Tăng (nay là phường Xuân Tăng), thành phố Lào Cai.

           Ông là con trai thứ năm cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1986 tốt nghiệp

Trường THPT thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1986 - 1989 tham gia Quân đội. Năm 1993 - 1996, học Trường Trung cấp Kế toán - Tài chính Hưng Yên. Năm 1996 - 2019 làm việc ở Công ty Xây dựng Công trình Giao thông 829. Từ năm 2019 đến nay làm ở Công ty CP, Tổng Công ty Liên doanh XDCT 18. Gia đình ở nhà CT4, Khu đô thị Mỹ Đình, đường Mễ Trì, Tổ 1, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

     Bà Mai Ngọc Dung.

  Sinh ngày:    25 - 1 - 1977 (Bính Thìn, 1976).

  Bà là con gái cụ Mai Xuân Điệp, phường Đồng Tâm, Q. Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Năm 1995 tốt nghiệp Trường THPT Đoàn Kết. Năm 1995 - 1999 học Trường ĐHTM Hà Nội, bằng Cử nhân QTKD. Năm 2002 tốt nghiệp văn bằng 2 Tài chính Kế toán, Trường ĐHTM. Từ năm 2003 đến nay đã làm việc ở các đơn vị: Xí nghiệp Xây dựng Số 2, Tổng Công ty Đầu tư & Phát triển nhà Hà Nội; Công ty Tài chính CP HANDICO; Ban Đầu tư và Xây dựng hạ tầng Kỹ thuật chung, Làng VH - DL các Dân tộc Việt Nam.

 

 13. 1.1.6 -          Ông Cao Đăng Rung.

          Sinh ngày:    19 - 5 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng Hoà.

          Ông là con trai trưởng cụ Cao Đăng Rong. Năm 1974 tốt nghiệp Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm 1974 - 1977 học Trường Trung cấp Y Bắc Thái. Năm 1977 - 1979 công tác ở Phân viện Sốt rét - Ký sinh trùng Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1979 - 1980 công tác tại Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên. Năm 1980 - 1985 vào Quân đội ở Ban Quân y, Trường Hậu cần Quân khu I, cấp bậc Thượng sỹ. Năm 1985 - 1993 công tác ở Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên. Năm 1992 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế Lao động, Trường Đại học Công Đoàn. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên. Năm 1993 - 2017 chuyển vào làm việc ở Liên doanh dầu khí  VIETSOPETRO là Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao. Gia đình ở SN 182- 1A đường Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Vũng Tàu.

          Bà Phùng Thị Dư.

  Sinh ngày:    10 - 9 - 1957 (Đinh Dậu).

          Bà là con gái cụ Phùng Văn Nhâm, thị trấn Chợ Rã, tỉnh Bắc Kạn. Năm 1974 tốt nghiệp cấp III. Năm 1974 - 1977 học Trường Trung cấp Y Bắc Thái. Năm 1977 - 1997 làm việc ở Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên. Từ năm 1997 đến khi nghỉ hưu năm 2012 làm việc ở Trung tâm chăm sóc Sức khỏe và Sinh sản, Sở Y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

     Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

          Con trai:                     - Cao Quang Hưng.

Con gái:

             - Cao Thị Thu Hằng, sinh ngày 13 - 9 - 1988. Tốt nghiệp THPT năm 2006. Học Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, ngành Bảo hiểm. Làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Đoàn Hồng Sơn, con ông  Đoàn Ngọc Kỳ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

 

 13. 1.1.7 -         Ông Cao Đăng Phong.

Sinh ngày:    14 - 7 - 1963 (Quý Mão), Bệnh viện Gang Thép, thành

phố Thái Nguyên.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đăng Rong, còn có tên là Đại Tống. Năm 1980 tốt nghiệp Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm 1982 vào Quân đội, học Trường Sỹ quan chỉ huy Thông tin, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1985 ra trường công tác ở BCH Quân sự đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Từng giữ các chức vụ: Trung úy Trung đội trưởng Thông tin, Thượng úy Trợ lý Thông tin, Quận đội Côn Đảo, thuộc BCH Quân sự đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Từ năm 1989 đến nay chuyển ngành làm việc tại Trung tâm Công nghệ Thông tin và Liên lạc, Liên doanh Dầu khí VIETSOPETRO. Gia đình ở D2- Lê Thị Riềng, thành phố Vũng Tàu.

          Bà Lưu Thị Tho.

          Sinh ngày:   8 - 10 - 1976 (Bính Thìn).

           Bà là con gái cụ Lưu Công Triều, quê gốc xã Giao Yến, nay gia đình ở thành phố Vũng Tàu. Làm việc tại Công ty may mặc gia đình cùng với bố mẹ đẻ và nội trợ gia đình.

          Ông bà sinh được 2 con gái:

         - Thứ nhất là Cao Thị Thu Huệ, sinh ngày 30 - 4 - 2000. Tốt nghiệp THPT năm 2018, học Trường Đại học Giao thông Vận tải ở thành phố Hồ Chí Minh và Hàn Quốc.

         - Thứ hai là Cao Thị Thanh Mai, sinh ngày 11- 2 - 2004.  

 

 13. 1.1.8 -           Ông Cao Kinh Thao.

 Sinh ngày:    7 - 1 - 1966 (Ất Tỵ, 1965), Bệnh viện Gang Thép, thành phố Thái Nguyên.

 Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đăng Rong. Năm 1983 tốt nghiệp Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm 1983 - 1986 học Trường Sỹ quan chỉ huy Thông tin, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1986 - 1989 ở Mặt trận 479 Campuchia. Năm 1989 - 1995 công tác ở F 302, Quân khu 7, cấp bậc Đại úy. Năm 1995 - 2000 ra quân, đi học Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ, thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2005 đến nay là Kỹ sư Điện tử - Viễn thông, làm việc ở Trung tâm Công nghệ Thông tin và Liên lạc Liên doanh dầu khí VIETSOPETRO. Gia đình ở

SN 188 Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Vũng Tàu.

          Bà Lê Thị Hồng.

          Sinh ngày:    9 - 12 - 1973 (Quý Sửu), xã Hoà Lâm.

           Bà là con gái cụ Lê Văn An, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Năm 1996 - 1997 học ở Trung tâm Bưu chính Viễn thông 2. Từ năm 1998 đến nay làm việc ở Bưu điện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Ông bà sinh được 2 con gái:

        - Thứ nhất là Cao Thị Thủy Tiên, sinh ngày 9 - 12 - 2004.

        - Thứ hai là Cao Tường Vy, sinh ngày 29 - 10 - 2007.

 

     13. 1.1.9 -          Ông Cao Bình Định.

Sinh ngày:    4 - 4 - 1971 (Tân Hợi), Thác Bà, huyện Yên Bình.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Quốc Hữu. Năm 1987 tốt nghiệp Trường THPT Nguyễn Huệ, thị xã Yên Bái (nay là Thành phố Yên Bái). Năm 1989 - 1991 học Trường Công nhân Cơ Điện, Bộ Thuỷ lợi ở Vĩnh Phúc. Năm 1991 - 1999 làm việc ở Nhà máy Cán thép Lưu Xá, Công ty Gang Thép Thái Nguyên và học Trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên. Từ năm 1999 làm việc ở Công ty Điện lực tỉnh Yên Bái: Kỹ sư Điện, Trưởng Chi nhánh Điện lực huyện Lục Yên, Trưởng phòng Kinh doanh Điện năng, Phó Giám đốc Công ty. Từ năm 2021 là Giám đốc công ty Điện lực tỉnh Yên Bái. Gia đình ở đường Quang Trung, thành phố Yên Bái.

          Bà Trương Thị Phúc.

          Sinh ngày:    31- 1- 1977 (Bính Thìn).

           Bà là con gái cụ Trương Văn Tiến, thành phố Yên Bái. Năm 1994 tốt nghiệp Trường THPT, thị xã Yên Bái. Học Trường ĐHTCKT Hà Nội. Năm 1998 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, ngành Kế toán. Từ năm 1999 đến nay làm việc ở: Bưu điện tỉnh Yên Bái, Công ty Điện lực tỉnh Yên Bái. 

          Ông bà sinh được 2 con trai:

                 - Trưởng là Cao Trần Quyết.

                 - Thứ hai là Cao Minh Thắng.

  

     13. 1.1.10 -          Ông Cao Bình Cung.

Sinh ngày:    5 - 1 - 1980 (Kỷ Mùi, 1979), thị xã Yên Bái.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Quốc Hữu. Năm 1998 tốt nghiệp

Trường THPT Nguyễn Huệ, thị xã Yên Bái (nay Thành phố Yên Bái). Năm 1998 - 2007 học Trường ĐHGTVT Hà Nội, Khoa Kinh tế, sau lại học tiếp văn bằng 2 Khoa Cầu đường. Là Kỹ sư Cầu đường và Cử nhân Kinh tế. Từ năm 2007 đến nay công tác ở Sở Giao thông Vận tải tỉnh Yên Bái: Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư Giao thông, Trưởng phòng Quản lý Chất lượng, Trưởng phòng Kế hoạch.

    Bà Lương Thanh Nga.

    Sinh ngày:    11 - 10 - 1985 (Ất Sửu).

     Bà là con gái cụ Lương Văn Phòng  quê ở huyện Lục Yên, Yên Bái. Năm 2007 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội. Công tác Trường THPT Số I Văn Bàn, tỉnh Lào Cai; Trung tâm VH - TT huyện Lục Yên; Phó Văn phòng Huyện ủy Lục Yên; Phó Văn phòng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Yên Bái, Phó Trưởng phòng Tổ chức cán bộ.

    Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

         Con trai:                   - Cao Đức Minh.

         Con gái:       - Cao Minh Hương, sinh ngày 20 - 1 - 2016.

 

 

     13. 1.1.11 -        Ông Cao Quang Khải.

Sinh ngày:     23 - 1 - 1976 (23 - 12 năm Ất Mão, 1975).  Bệnh viện Gang Thép, thành phố Thái Nguyện.

     Ông là con trai cụ Cao Quốc Sủng, còn có tên là Kinh Vũ. Năm 1993 tốt nghiệp Trường THPT Gang Thép, Thái Nguyên, học Cao đẳng Luyện kim Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1997 làm việc ở Trường Cao đẳng Cơ khí - Luyện kim Thái Nguyên, học tiếp đại học, tốt nghiệp Kỹ sư Luyện kim. Năm 2001 - 2004 làm việc tại Công ty Cổ phần Xây lắp Số 7 (COMA 7), Thanh Trì, Hà Nội. Từ năm 2004 làm việc ở Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội: Chuyên viên chính, Phó Trưởng phòng Dự án, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm định Thiết bị nâng hạ. Bằng 2 Cử nhân Quản lý Hành chính, Học viện HCQG Hà Nội. Thạc sỹ QTKD, Trường Đại học Thuỷ lợi Hà Nội. Gia đình ở Căn hộ 602, nhà CT5, phố Trần Văn Lai, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

     Ông nhận Cao Hoàng Long con trai của chị gái làm kế tự.

Bà Quách Thị Xuân Thu.

     Sinh ngày:    23 - 3 - 1979 (Kỷ Mùi), Thanh Trì, Hà Nội.

      Bà là con gái cụ Quách Tất Hiến, xã An Lạc, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Năm 1996 - 2000 học Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội. Từ năm 2001 Cử nhân Tài chính  Kế toán, làm việc ở các đơn vị: Công ty Cổ phần Xây lắp Số 7 (COMA 7), Thanh Trì, Hà Nội; Phó phòng Kế toán Công ty Cổ phần chứng khoán An Bình, Đống Đa, Hà Nội; Kế toán trưởng Công ty Chứng khoán KSF, Tập đoàn SUNHINE, Hà Nội.

     Ông bà sinh được 2 con gái:

     Kế tự:                    - Cao Hoàng Long.

     Hai con gái:

           - Thứ nhất là Cao Thiên An, sinh ngày 9 - 10 - 2010.

           - Thứ hai là Cao Xuân Anh, sinh ngày 21 - 3 - 2015.

     

13. 1.2.12 -        Ông Cao Xuân Thiện.

Sinh ngày:    18 - 9 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng Hoà.

     Ông là con trai cụ Cao Ngọc Cờn, còn có tên là Xuân Kiệm. Năm 1976 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy, sau đó tham gia Quân đội. Năm 1980 - 1985 học Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện KTQS), ngành Tên lửa Phòng không, ở lại trường làm giáo viên Bộ môn Kỹ thuật Điện. Năm 1995 - 1998 học Cao học ngành Tự động hóa và Điều khiển từ xa tại Học viện KTQS. Bằng Thạc sỹ, Giảng viên chính, cấp bậc Đại tá, từng giữ chức vụ Phó Trưởng Trung tâm Tên lửa và Kỹ thuật điều khiển. Được khen thưởng: Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhất, Nhì, Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Giáo dục Đào tạo; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp KH&CN; Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Nhà ở Phòng 107, tập thể HVKTQS, Ngõ 100B, đường Hoàng Quốc Việt, Thành phố Hà Nội. Năm 2016 nghỉ hưu, năm 2019 gia đình chuyển vào ở 21/4 Kha Vạng Cân, Phường 7, thành phố Vũng Tàu.

     Từ năm 2010 tham gia Thường trực Chi nhánh họ Cao Trần tại Hà Nội. Từ năm 2012 là UVTT Ban liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt

Nam. Năm 2015 - 2016 làm Thủ quỹ Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.

     Ông tham gia biên soạn Gia phả họ Cao Trần năm 2018, Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.

     Bà Vũ Thị Đan.

Sinh ngày:    3 - 9 - 1960 (Canh Tý), thôn Cộng Hoà.

Bà là con gái cụ Vũ Lê Minh, thôn Cộng Hòa. Năm 1979 - 1981 học

Trường Trung cấp Tòa án Bình Triệu, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990 tốt nghiệp Trường Đại học KTQD. Năm1998 tốt nghiệp Trường Đại học Luật Hà Nội. Từ năm 1982 công tác ở Tòa án Nhân dân huyện Giao Thủy,

giữ các chức vụ: Thẩm phán năm 1999, Phó Chánh án từ năm 2004 đến

nghỉ hưu năm 2011. Năm 2019 chuyển vào ở thành phố Vũng Tàu.

    Được khen thưởng: Chiến sỹ Thi đua ngành TAND; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Tòa án; Kỷ niệm chương vì sự Tiến bộ của Phụ nữ; Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng.

    Ông bà sinh được 2 con trai:

                          - Trưởng là Cao Ngọc Khánh.

                          - Thứ hai là Cao Ngọc Khương.

 

 13. 1.2.13 -        Ông Cao Văn Chiến.

Sinh ngày:    16 - 10 - 1965 (Ất Tỵ), xã Giao Lạc.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi Thừng. Năm 1983 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1985 - 1989 tham gia Quân đội và học Trường Sỹ quan Hải quân, ngành Hoa tiêu. Từng giữ các chức vụ: Phó Thuyền trưởng, Thuyền trưởng, Hải đội trưởng của Lữ đoàn 172 Vùng 3 Hải quân. Năm 2002 - 2004 học sau đại học tại Học viện Hải quân. Từ năm 2008 - 2010 công tác ở Phòng Tác chiến, Bộ Tham mưu Quân chủng Hải quân. Năm 2010 - 2017 Lữ đoàn phó Lữ đoàn 161, Vùng 3 Hải quân. Năm 2017 Chi đội trưởng Chi đội Kiểm ngư Số 3, Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân, cấp bậc Đại tá. Năm 2019 được bổ nhiệm Phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Thương binh 4/4. Khen thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng. Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng.

     Gia đình ở SN 90, đường Trần Quang Khải, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

     Bà Nguyễn Thị Vân.

Sinh năm:   Quý Sửu (1973), huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

          Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Tiến, xã An Bồi, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Từ năm 1991 làm ở Xí nghiệp da dầy Đà Nẵng. Năm 2001 được tuyển dụng làm CNV Quốc phòng ở Ban hành chính, Vùng 3 Hải quân. Năm 2012 chuyển sang hưởng chế độ QNCN, cấp bậc Thượng uý. Năm 2018 được lên quân hàm Đại uý, nhân viên hộ lý Trạm xá Phòng Hậu cần, Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Năm 2022 về nghỉ hưu tại Đà Nẵng.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                 - Cao Minh Hoàng.

  Con gái:      

              - Cao Thu Quyên, sinh ngày 23 - 9 - 1996. Năm 2014 tốt  nghiệp trường THPT Phan Chu Trinh, Đà Nẵng và học Trường Đại học Khoa học và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2018 tốt nghiệp loại giỏi, Ngành Báo chí. Năm 2017 - 2019 học và tốt nghiệp văn bằng 2 tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2020 nhập ngũ, cấp bậc Thiếu uý QNCN, làm việc ở Nhà Văn hoá Vùng 3 Hải quân tại thành phố Đà Nẵng.

 

     13. 1.2.14 -         Ông Cao Văn Thắng.

Sinh ngày:    2 - 8 - 1968 (Mậu Thân), xã Giao Lạc.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Chi Thừng. Từ năm 1983 nghề chính là thợ xây dựng. Năm 1993 - 2017 là Đội trưởng thi công của Công ty TNHH Xây dựng, Cao Bằng. Từ năm 2018 đến nay ông lập một Đội thợ xây dựng tư nhân tại huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.

          Bà Đỗ Thị Thúy.

Sinh năm:    Quý Sửu (1973).

Bà là con gái cụ Đỗ Văn Lương, xã Giao Lạc. Làm nghề buôn bán hàng may mặc ở quê đến năm 2018. Từ năm 2019 đến nay chuyển lên Cao Bằng cùng chồng làm nghề xây dựng.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                 - Cao Văn Dũng.

  Con gái:    

                  - Cao Thị Duyên, sinh ngày 19 - 10 - 1996. Năm 2014, tốt nghiệp trường THPT Giao Thủy C và học Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Năm 2018 ra trường là Cử nhân Kế toán, Tài chính.

 

 

     13. 1.2.15 -         Ông Cao Văn Điện.

          Sinh ngày:    19 - 8 - 1971 (Tân Hợi), xã Giao Lạc.

           Ông là con trai thứ ba cụ Cao Chi Thừng. Từ năm 1986 nghề chính

là thợ xây dựng. Năm 1993 - 2019 làm công nhân xây dựng của Công ty TNHH Xây dựng ở tỉnh Cao Bằng. Từ năm 2020 trở về quê tiếp tục làm nghề thợ xây dựng và làm nông nghiệp.   

     Bà Trần Thị Lý.

Sinh năm:   Quý Hợi (1983), xã Hồng Thuận.

Bà là con gái cụ Trần Văn Chính, Xóm 15, xã Hồng Thuận. Làm nghề thợ may và làm nông nghiệp.

Ông bà sinh được 3 con gái:

           - Thứ nhất là Cao Thị Ánh Quỳnh, sinh ngày 22- 10 -  2006.

          - Thứ hai là Cao Thị Quỳnh Anh,  sinh ngày 27- 11 - 2008.

          - Thứ ba là Cao Thị Trà My, sinh ngày 23 - 10 - 2014.

 

     13. 1.2.16 -         Ông Cao Văn Biên.

Sinh ngày:    18 - 8 - 1976 (Bính Thìn), xã Giao Lạc.

Ông là con trai thứ tư cụ Cao Chi Thừng. Từ năm 1998 - 2019 làm

công nhân xây dựng của Công ty TNHH Xây dựng ở tỉnh Cao Bằng. Từ năm 2020 trở về quê làm nông nghiệp.

     Bà Phạm Thị Hương.

Sinh năm:    Quý Sửu (1973).

          Bà là con gái cụ Phạm Văn Hậu, Xóm 9, xã Giao Lạc. Là cô giáo dậy ở Trường Mầm non, xã Giao Lạc. Khen thưởng: Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Giáo dục.

Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

Con trai:                      - Cao Minh Phước.

  Con gái:     - Cao Thị Thùy Dung, sinh ngày 3 - 11 - 2005.

  

     13. 1.2.17 -          Ông Cao Anh Hào.

Sinh ngày:    24 - 12 - 1979 (Kỷ Mùi), thị xã Nghĩa Lộ, Yên Bái.

     Ông là con trai cụ Cao Xuân Thế. Năm 1997 tốt nghiệp THPT. Năm 1997 - 2002 học Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội. Năm 2002 tốt nghiệp Kỹ sư Mỏ, làm việc ở Tổng Công ty Than tại Hà Nội. Năm 2004 làm việc ở Sở Công nghiệp tỉnh Lào Cai. Năm 2005 làm việc ở Mỏ đồng Sin Quyền, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, là Kỹ sư Khai thác mỏ, Trưởng phòng Kỹ thuật và kiêm Trưởng phòng Dự án. Năm 2011 - 2015 làm Phó Giám đốc Mỏ vàng Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Năm 2016 đến 2020 là Phó Trưởng phòng Kế hoạch Giá thành, từ năm 2021 đến nay là Trưởng phòng Mỏ - Địa chất, Tổng Công ty Khoáng sản, Tập đoàn TKS Việt Nam tại Hà Nội. Năm 2016 - 2017 học và lấy bằng Thạc sỹ chuyên nghành Khai thác mỏ, Trường Đại học Mỏ Địa chất Hà Nội. Học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Quản lý Kinh tế. Tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

    Gia đình ở khu chung cư Hồ Gươm Plaza số 102, đường Trần Phú, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

     Bà Vũ Liên Phượng.

Sinh năm:     Nhâm Tuất (1982).

Bà là con gái cụ Vũ Văn Chiến, xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh

Nam Định. Từ năm 2002 - 2016 làm việc ở Mỏ đồng Sin Quyền, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Từ năm 2017 đến nay làm việc ở Chi nhánh Công ty CP Quốc tế SAMNECS, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Ông bà sinh được 2 con trai:

                                 - Trưởng là Cao Vũ Lâm Giang.

                                 - Thứ hai là Cao Vũ Hoàng Bách.

  

 13. 1.2.18 -          Ông Cao Ngọc Chinh.

 Sinh ngày:     7 - 6 - 1975 (Ất Mão), thôn Cộng Hoà.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Tộ. Trước làm nghề thợ mộc, sau chuyển sang làm nghề kim hoàn. Năm 1992 lên tỉnh Cao Bằng làm việc cho Công ty Vàng bạc bạc Kim Tín. Năm 2011 mở Doanh nghiệp Vàng bạc Nhinh Chinh ở thành phố Cao Bằng. Năm 2018 thành lập Công ty Vàng bạc Nhinh Chinh. Văn phòng Công ty, cửa hàng và nhà riêng ở Số 003 phố Xuân Trường, phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng.

     Bà Vũ Thị Nhinh.

 Sinh năm:    10 - 2 - 1980 (Canh Thân), thôn Quyết Tiến.

      Bà là con gái cụ Vũ Văn Độ, thôn Quyết Tiến. Làm nghề thợ may, năm  2002 - 2007 làm ở Malayxia, nay kinh doanh vàng bạc Thành phố Cao Bằng.

Ông bà sinh được 2 con trai:

                - Trưởng là Cao Trần Ngọc.

                - Thứ hai là Cao Trần Bảo An.

 

 13. 1.2.19 -           Ông Cao Văn Nhàn.

Sinh ngày:    11- 2 - 1979 (Kỷ Mùi), thôn Cộng Hoà.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Tộ. Làm thợ kim hoàn, đã từng

làm cho các doanh nghiệp vàng Kim Tín ở tỉnh Cao Bằng, Ngọc Hà ở quê. Hiện nay làm cho hiệu vàng Quang Thắng, huyện Giao Thủy.

          Bà Hoàng Thị Nhung.

Sinh ngày:    1 - 2 - 1980 (Canh Thân), thôn Cộng Hoà.

Bà là con gái cụ Hoàng Văn Mai, thôn Cộng Hòa. Làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê. Từ năm 2019 làm việc cho Công ty EOC Việt Nam, Chi nhánh tại huyện Xuân Trường.

Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

   Con trai:                     - Cao Trường Sơn.

          Con gái:        - Cao Thị Bảo Vy, sinh ngày 5 - 7 - 2010.

  

     13. 1.3.20 -           Ông Cao Hải Long.

Sinh ngày:    25 - 4 - 1980 (Canh Thân), Nông trường chè Liên Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Ông là con trai cụ Cao Bàng Đức. Là Kỹ sư Điện, công tác ở Văn phòng Tỉnh ủy Lào Cai. Gia đình ở Tổ 8, phường Bắc Lệnh, Thành phố Lào Cai.

  Bà Nguyễn Hạnh Nguyệt (đã ly hôn).

  Sinh năm:   1980, xã Bình Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

          Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.    

          Con trai:               - Cao Thanh Lâm.

          Con gái:      - Cao Thị Thanh Trúc.

          Bà hai Đặng Thị Giang

           Sinh ngày:   2 - 11 - 1995 (Ất Hợi), huyện Mường Khương, Lào Cai.

          Bà là con gái cụ Đặng Văn Tiền, xã Vũ Đông, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

          Ông bà sinh được 1 con trai:    - Cao Nam Phong.

  

      13. 1.3.21 -          Ông Cao Văn Thành.

Sinh ngày:   4 - 1 - 1985 (Giáp Tý, 1984), xã Bản Qua, Bát Xát.

Ông là con trai cụ Cao Trọng Đạt. Là Kỹ sư Điện, hiện đang kinh doanh công trình xây dựng ở tỉnh Lào Cai. Gia đình ở Tổ 2, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

          Bà Lê Thị Huyền

          Sinh ngày: 14  tháng Giêng năm Ất Sửu, tức ngày: 03 - 02 - 1985.

           Bà là con cụ Lê Hoài Thanh ở Khu 9, thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Học Đại học Sư phạm, là giáo viên Trường Tiểu học Lê Văn Tám, thành phố Lào Cai.

Ông bà sinh được 2 con trai:

                          - Trưởng là Cao Trường Giang.

                          - Thứ hai là Cao Hiển Vinh.

     13. 1.3.22 -          Ông Cao Văn Hưng.

Sinh ngày:    3 - 7 - 1991 (Tân Mùi), xã Bản Qua, Bát Xát.

Ông là con trai cụ Cao Kỳ Lân. Tốt nghiệp Cao đẳng Dược năm 2013. Ở cùng với gia đình tại xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

 Bà Trần Thị Liên

 Sinh ngày:    9 - 9 - 1992 (Nhâm Thân).

 Bà là con gái cụ Trần A Hỷ, thôn Mận Chón 2, xã Cốc Mỳ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

 Ông bà sinh được 1 con trai:     - Cao Phúc Nguyên.

 

     13. 1.3.23 -         Ông Cao Quang Trung.

Sinh ngày:    16 - 12 - 1994 (Giáp Tuất), xã Bản Qua, Bát Xát.

Ông là con trai cụ Cao Hoài Ngọc. Ở cùng gia đình tại xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

  

 13. 1.3.24 -           Ông Cao Duy.

     Sinh ngày:    3 - 1 - 1996 (Ất Hợi, 1995), xã Mương Mán.

     Ông là con trai cụ Cao Khắc Việt. Năm 2014 tốt nghiệp Trường phổ

thông Trung học Hàm Thuận Nam, học Cao đẳng Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2017 học tiếp liên thông Đại học ngành Điện lực, Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh.

 

   

 13. 1.4.25 -          Ông Cao Văn Thục.

Sinh năm:    Kỷ Hợi (1959), thôn Việt Dũng.

     Ông là con trai cụ Cao Văn Quy. Năm 1977 tham gia Quân đội. Năm 1979 - 1981 đi học nghiệp vụ xăng dầu của Tổng cục Hậu cần sau đó vào

làm việc ở Tân cảng Cát Lái, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981 xuất ngũ về quê, tham gia một số công tác ở địa phương: Xóm, Đội trưởng 10 Quyết Tiến (nay là Xóm, Đội 4 Giao Tiến); Là Ủy viên HĐND xã Giao Tiến các nhiệm kì 2011-2016, 2016-2021, 2021-2026.

         Bà Vũ Thị Xương

Sinh năm:    Mậu Tuất (1958), thôn Việt Dũng.

Bà là con gái cụ Vũ Văn Cương, thôn Việt Dũng. Làm nông nghiệp

và buôn bán nhỏ ở quê.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                  - Cao Quang Anh.

Con gái:      - Cao Thị Ngọc Anh, sinh năm 1981. Chồng là Trần Văn Thọ ở Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai.

 

 

 13. 1.4.26 -          Ông Cao Văn Dũng.

Sinh ngày:    24 - 9 - 1989 (Kỷ Tỵ), xã Bạch Long.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Minh. Năm 2007 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B. Năm 2010 - 2013 học Trường CĐ Công nghiệp Hà Nội. Năm 2014 - 2016 học Trường CĐ nghề, Bộ NN&PTNT, Hà Nội chuyên ngành Sửa chữa ô tô. Từ năm 2017 đến nay làm việc tại Doanh nghiệp Muối iốt Thường Liên, xã Bạch Long.

          Bà Trần Thị Tâm.

          Sinh ngày:   20 - 2 - 1994  (Giáp Tuất).

           Bà là con gái cụ Trần Văn Trung, Xóm 4, xã Giao Tân. Năm 2012 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B, học và làm nghề may ở tỉnh Quảng Ninh. Năm 2018 lập gia đình và làm ăn ở quê chồng xã Bạch Long.

Ông bà đã có 1 con gái:   - Cao Tuệ Nhi, sinh ngày 13 - 6 - 2020.

 

 

 13. 1.4.27 -         Ông Cao Văn Sỹ.

Sinh ngày:    2- 5 - 1992 (Nhâm Thân), xã Bạch Long.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Minh. Năm 2010 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B. Năm 2010 - 2015  học Trường ĐHGTVT Hà Nội, Khoa Cầu đường bộ, tốt nghiệp Kỹ sư Cầu đường. Năm 2015 - 2018 làm việc tại Công ty TNHH Đông Mê Công, quận Nhà Bè, Thành phố HCM. Từ năm 2019 làm việc cho doanh nghiệp CADIAN Việt Nam, Thành phố HCM.

Bà Nguyễn Thị Thu Hà.

Sinh ngày:    15 - 7 - 1992 (Nhâm Thân).

Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Hải, xã Việt Hồng, huyện Trực Ninh. Học ở xã Bạch Long từ nhỏ, năm 2010 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B, năm 2010 - 2014 học Trường ĐHNT Hà Nội, Khoa tiếng Anh. Từ năm 2015 làm việc cho Công ty VINABAT Việt Nam, Chi nhánh Thành phố HCM.

Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

Con trai:                  - Cao Hoàng Nguyên

Con gái:      - Cao Nguyên An, sinh ngày 21 - 12 - 2018.

 

 

          B - CHI THỨ HAI

 

13. 2.2.28 -         Ông Cao Trung Hiếu.

Sinh năm:    Giáp Thìn (1964).

Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Chính, làm nhân viên kinh doanh nhà hàng, đường Đồng Khởi, thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình ở ở SN 53, Đường 25, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.

     Bà Đặng Thị Tuyết Anh.

Sinh năm:    Bính Ngọ (1966).

Bà quê ở Phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Bà làm nội trợ và buôn bán nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh.

 Ông bà sinh được 1 con trai :  

                             - Cao Đặng Bảo Châu.

 

      13. 2.2.29 -      Cao Công huý Thành Đức.

Sinh năm :    Bính Ngọ (1966).

Mất ngày:    23 - 6 năm Bính Dần (1986), hưởng 21 tuổi.

Mộ ở nghĩa trang Liệt sỹ quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Chính. Nhập ngũ năm 1984, liệt sỹ, hy sinh ở chiến trường Campuchia năm 1986.

 

 

     13. 2.2.30 -          Ông Cao Minh Phú.

Sinh năm :    Mậu Thân (1968).

          Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung Chính.

          Nghề nghiệp làm công. Gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.

     Bà ...    (không rõ họ tên).

     là người ở tỉnh Quảng Nam.

     13. 2.2.31 -           Ông Cao Thế Minh.

 Sinh năm :    Canh Tuất (1970).

           Ông là con trai thứ tư cụ Cao Trung Chính. Làm chủ cơ sở may mặc ở hẻm Dương Bát Trạc, Phường 2, Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

     Bà Phan Thị Vân Anh.

Bà làm nghề may mặc cùng gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.

Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

     Con trai:                      - Cao Thế Khang.

     Con gái:       - Cao Kim Ngọc, sinh năm 2000.

 

 

 13. 2.2.32 -         Ông Cao Trọng Tuấn.

Sinh năm:    Nhâm Tý (1972).

Là con trai thứ năm cụ Cao Trung Chính. Nghề nghiệp làm công.

Gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.

     Bà Đặng Thị Kim Thanh.

Ông bà sinh được 1 con trai:   - Cao Đặng Kim Hoàng.

 

 

     13. 2.2.33 -           Ông Cao Trần Hải.

Sinh năm:    Giáp Dần (1974).

          Ông là con trai thứ sáu cụ Cao Trung Chính. Nghề nghiệp làm công. Gia đình ở SN 53, Đường 25, phường Tân Quy, Quận 7, Thành phố HCM.

     Bà ...   (đã ly hôn).    Ông bà sinh được 1 con gái:

              - Cao Bảo Trân, sinh năm 1995. Chồng là Nguyễn Việt Tuấn, quê ở thành phố Hải Phòng.

     Bà hai: Võ Thị...

     Ông bà sinh được 1 con trai:    - Cao Võ Hải Trường.

 

 

 13. 2.2.34 -          Ông Cao Thành Long.

Sinh năm:    Đinh Tỵ (1977).

          Ông là con trai thứ bảy cụ Cao Trung Chính.

          Nghề nghiệp làm công. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh.

      13. 2.2.35 -          Ông Cao Đình Trang.

Sinh ngày:    13 -12 - 1986 (Bính Dần), thành phố Nam Định.

Ông là con trai cụ Cao Văn Trọng. Tốt nghiệp THPT, năm 2006 -

2011 học Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Là Kỹ sư Công nghệ Thông tin, làm việc ở Công ty Cổ phần đầu tư Lạc Hồng ở Thành phố Hà Nội.

          Gia đình ở Số nhà 24C, Ngõ 178, phố Quan Nhân, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

         Bà Lê Thị Ánh Tuyết.

          Sinh ngày:    11 - 12 - 1993 (Quý Dậu).

           Là con gái cụ Lê Văn Hán, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Học Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Khoa tiếng Anh - Đức, tốt nghiệp năm 2015. Hiện nay làm việc tại Công ty Du học Đức Albert Einstein Hà Nội.

- Sinh con trai:  Cao Quang Minh 14 - 07 - 2022.

 

 13. 2.2.36 -         Ông Cao Quang Anh.

Sinh ngày:    23 - 2 - 2001 (Tân Tỵ), thành phố Hồ Chí Minh.

Ông là con trai cụ Cao Văn Tôn, học Trường Đại học Tôn Đức Thắng, thành phố Hồ Chí Minh, ngành Quản trị Kinh doanh Du lịch.

 

 

     13. 2.2.37 -         Ông Cao Hoàng Anh.

Sinh ngày:    20 - 7 - 1993 (Quý Dậu), thành phố Hà Nội.

Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Kính. Học Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải Hà Nội. Ra trường năm 2011, làm việc ở Công ty Cổ phần Xây dựng và Lắp máy xây dựng Hà Nội. Nhà ở Số 8, Dẫy G, tổ dân phố Số 6, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Bà Lưu Hương Giang.

Sinh ngày:    5 - 11 - 1997 (Đinh Sửu).

Là con gái cụ Lưu Văn Trong, xã Kim Chung, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Học Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, tốt nghiệp năm 2021. Hiện nay làm việc ở Siêu thị OKONO tại Thành phố Hà Nội.

Ông bà đã sinh được 1 con gái:

            - Cao Minh Châu, sinh ngày 10 - 2 - 2022, Thành phố Hà Nội.

 

 

 13. 2.2.38 -          Ông Cao Hoàng Sơn.

          Sinh ngày:    14 - 6 - 2003 (Quý Mùi), thành phố Hà Nội.

          Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Kính. Học Cao đẳng nghề Điện lạnh, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.

 

 

13. 2.4.39 -          Ông Cao Trung Kiên.

     Sinh ngày:    22- 11 - 1993 (Quý Dậu), xã Giao Thiện.

      Ông là con trai cụ Cao Quốc Đạt. Năm 2011 - 2014 học Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội. Năm 2014 ra trường, hiện nay làm nghề tự do

sửa chữa xe máy tại thành phố Nam Định. 

 Bà Vũ Thị Diệu Anh

 Sinh ngày:    08 - 8 - 1994 (Giáp Tuất).

 Bà là con gái cụ Vũ Văn Quyền ở SN 30, đường Thái Bình, phường Trần Tế Xương, thành phố Nam Định. Học Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, tốt nghiệp năm 2015. Hiện nay làm việc ở tại Công ty Cổ phần may Sông Hồng, thành phố Nam Định. 

 

 

 13. 2.4.40 -          Ông Cao Văn Suất.

     Sinh ngày:    8 - 1 - 1999 (Mậu Dần 1998), xã Buôn Triết, huyện Lắk.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Sơn. Học xong THPT năm 2015

ông xuất gia đầu Phật, học Trường Trung cấp Phật học tại chùa Bảo Quốc, thành phố Huế. Tháng 6 - 2018, ông được thụ phong Tỳ Kheo, pháp danh là Tuệ Pháp. Hiện đang tu tại chùa Thanh Hoà, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.

 

   

      13. 2.4.41 -          Ông Cao Văn Sắc.

      Sinh ngày:    3 - 10 - 2000 (Canh Thìn), xã Buôn Triết, huyện Lắk.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Sơn. Năm 2018 học Trường Cao đẳng Lý Tử Trọng, ngành Công nghệ Thông tin tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2021 ra trường, hiện nay làm việc tại tỉnh Bình Phước.

 

 

      13. 2.4.42 -          Ông Cao Quốc Sinh.

     Sinh ngày:    26 - 2 - 2005 (Ất Dậu), xã Buôn Triết, huyện Lăk.

     Ông là con trai thứ ba cụ Cao Văn Sơn. Học Trường THPT.

 

 

 13. 2.4.43 -      Ông Cao Trần Bảo Long.

    Sinh ngày:    3 - 10 - 2011 (Tân Mão), Thành phố Hồ Chí Minh

     Ông là con trai cụ Cao Đức Triệu, học Trường Tiểu học An Khánh, phường An Khánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

     13. 2.5.44 -         Ông Cao Đông Cương.

      Sinh ngày:   7- 5 - 1981 (Tân Dậu), xã Điền Hải, huyện Đông Hải.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Đông Thiện. Gia đình đang làm ăn, sinh sống bằng nông nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

     Bà Bùi Thị Lụa.

     Sinh ngày:    15 - 8 - 1990 (Canh Ngọ).

     Bà là con gái cụ Bùi Văn Tái, xã Giao Hà, làm nông nghiệp.

     Ông bà sinh được: 1 con trai, 2 con gái.

     Con trai:                - Cao Trung Nguyên.

     Hai con gái:

                - Thứ nhất là Cao Tú Trinh, sinh năm 2009.

                - Thứ hai là Cao Tú Uyên, sinh năm 2013.

 

 

  13. 2.5.45 -         Ông Cao Thiên Tài.

      Sinh ngày:    14 - 11 - 1991 (Tân Mùi), xã Điền Hải, Đông Hải.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đông Thiện. Năm 2010 - 2013 học tại Học viện Biên phòng, ra trường về công tác ở Đồn biên phòng Nhà Mát, Bộ đội Biên phòng tỉnh Bạc Liêu, Đội trưởng Đội trinh sát, Đồn biên phòng Nhà Mát, được phong cấp hàm Đại uý. Năm 2021 về công tác ở Ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bạc Liêu.

 

      Bà Sử Tú Quyên.

      Sinh ngày:    17 - 10 - 1991 (Tân Mùi).

      Bà là con gái cụ Sử Tuấn Kiệt, xã Ninh Quế A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

      Ông bà đã có 1 con trai:     - Cao Phước Lộc.


          C - CHI THỨ BA

 

 13. 3.1.46 -        Ông Cao Trần Dương.

      Sinh năm:    Đinh Mão (1987), thôn Toàn Thắng.

      Ông là con trai cụ Cao Trần Dưỡng. Học Trường Trung cấp nghề, nay làm thợ sửa chữa xe máy, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

 13. 3.1.47 -         Cao Thanh Bình.

      Ngày sinh:    21 - 12 - 2011 (Tân Mão), quận Thủ Đức.

      Ông là con trai bà hai cụ Cao Trần Dưỡng.

 

 

    13. 3.1.48 -          Ông Cao Tùng Sơn.

      Sinh ngày:    11- 8 - 1998 (Mậu Dần), thành phố Vũng Tàu.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Hiền. Năm 2016 tốt nghiệp THPT, thành phố Vũng Tàu, thi đỗ và học ngành Dược, Trường Đại học Công nghệ thành phố  Hồ Chí Minh.

 

 

 13. 3.1.49 -         Ông Cao Hoàng Bách.

      Sinh ngày:    30 - 9 - 2001 (Tân Tỵ), thành phố Vũng Tàu.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Hiền. Năm 2018 tốt nghiệp THPT Trường Trần Nguyên Hãn thành phố Vũng Tàu, thi đỗ và học Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, ngành Công nghệ Thông Tin.

 

     13. 3.1.50 -         Ông Cao Huy Hoàng.

     Sinh ngày:    27- 7 - 1993 (Quý Dậu), thôn Toàn Thắng.

     Ông là con trai trưởng cụ Cao Song Hảo. Năm 2011 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ. Năm 2011 - 2016 học Trường ĐH SPKT thành phố HCM. Từ năm 2017 đến nay làm việc ở Công ty TNHH Lương Hải Hưng, Thành phố HCM.

      Bà Cung Thị Nguyệt Hằng.

      Sinh ngày:    29 - 12 - 1993 (Quý Dậu).

      Bà là con gái cụ Cung Tấn Ngọc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

      Ông bà đã có 1 con trai:     - Cao Thiên Phúc.

 

 

 13. 3.1.51 -       Ông Cao Thế Huy.

      Sinh ngày:    30 - 4 - 2002 (Nhâm Ngọ), xã Giao Tiến.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Song Hảo. Năm 2020 tốt nghiệp THPT tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2020 học Trường Đại học Điện lực thành phố Hồ Chí Minh.

 

    D - CHI THỨ TƯ

 

 13. 4.1.52 -      Ông Cao Quang Chức.

     Sinh năm:    Canh Dần (1950), thôn Thống Nhất.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Tôn. Năm 1970 - 1978 tham gia Quân đội đánh Mỹ, cấp bậc Thiếu úy. Năm 1978 - 1988 là Đội trưởng, Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp. Năm 1988 - 2010 là Đảng uỷ viên xã Giao Tiến, Xã Đội trưởng. Hội viên HCCB Việt Nam xã Giao Tiến. Nghỉ hưu từ năm 2010. Được thưởng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Vũ trang Quần chúng; Huy hiệu 30, 40, 45 năm tuổi Đảng.

      Ông tham gia các công việc của họ: năm 2015 - 2016 Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng; năm 2017 làm Trưởng Ban xây dựng Phúc Lương Đường; Ban biên soạn Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2022.

     Bà Vũ Thị Mão.

     Sinh năm:   Tân Mão (1951), thôn Thống Nhất.

      Bà là con gái cụ Vũ Văn Thiệu, thôn Thống Nhất, làm nông nghiệp.

     Ông bà sinh được: 3 con trai và 2 con gái.

  Ba con trai:

                 - Trưởng là Cao Trọng Đại.

                 - Thứ hai là Cao Quang Học.

                 - Thứ ba là Cao Xuân Khoát.

  Hai con gái:

 - Thứ nhất là Cao Thị Huyền, sinh năm 1977. Chồng là Doãn Thế Văn, con ông Doãn Văn Quế, Xóm 5 Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai.

 - Thứ hai là Cao Thị Thanh Chuyền, sinh năm 1981, kinh doanh tạp hoá, thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Chồng Nguyễn Văn Đặng, con ông Nguyễn Văn Thâu cùng quê. Sinh được 2 con trai.

 

 

 13. 4.1.53 -     Cao Công huý

                             Xuân Vĩnh, hiệụ Phúc Cửu.

     Sinh năm:    Mậu Tuất (1958), Xóm 1 Hùng Tiến.

     Mất ngày:    26 - 6  năm Mậu Tuất (2018), thọ 61tuổi.

     Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Tôn. Sinh thời học phổ thông, năm 1976 - 1982 tham gia Quân đội, cấp bậc Thiếu uý. Từ năm 1983 phục viên về quê làm nông nghiệp và làm thợ mộc ở tỉnh Cà Mau. Hội viên HCCB Việt Nam xã Giao Tiến.

     Năm 2017 ông làm Thủ quỹ xây dựng Phúc Lương Đường.

     Bà Lê Thị Mai.

         Sinh năm:    Kỷ Hợi (1959).

Bà là con gái cụ Lê Văn Khôi, cùng thôn.

    Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.

 Con trai:                   - Cao Đức Ảnh.

 Ba con gái:

               - Thứ nhất là Cao Thị Loan, sinh năm 1980. Chồng là Phạm Văn Tưởng, con ông Phạm Văn Vừng, Xóm 8 Quyết Thắng. Sinh 2 con trai.

              - Thứ hai là Cao Thị Phượng, sinh năm 1984. Chồng là Lê Văn Nội, con ông Lê Văn San, Xóm 4 Quyết Tiến. Sinh được 2 con trai.

              - Thứ ba là Cao Thị Hường, sinh năm 1984. Chồng là Vũ Văn Mạch, con ông Vũ Văn Lương, Xóm 8 Hùng Tiến. Sinh1 con trai,1 con gái.

 

 13. 4.1.54 -         Ông Cao Xuân Dương.

     Sinh năm:    Quý Mão (1963), Xóm 1 Hùng Tiến.

     Ông là con thứ ba cụ Cao Trung Tôn, làm nghề thợ mộc ở tỉnh Sơn La và ở quê. Năm 2017 ông tham gia Ban kiến thiết Phúc Lương Đường.

          Bà Vũ Thị Đũi.

          Sinh năm:     Mậu Thân (1968).

          Bà là con gai cụ Vũ Văn Đoan, cùng thôn.

          Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con gái.

  Con trai:                    - Cao Trọng Duy.

  Hai con gái:     

         - Thứ nhất là Cao Thị Ngoan, sinh năm 1990. Năm 2009 tốt nghiệp THPT. Năm 2009 - 2014 học Khoa Kế toán, Học viện Tài chính Hà Nội. Từ năm 2015 đến nay làm kế toán tại Công ty TNHH 1 Thành viên   Trung Anh, thành phố Lào Cai.

                  - Thứ hai là Cao Thị Doan, sinh năm 1996. Năm 2014 tốt nghiệp

THPT. Năm 2014 - 2018 học Trường Đại học GTVT Hà Nội. Hiện nay làm kế toán tại Công ty Thái Hà, Hà Nội. Chồng là Nguyễn Duy Sơn, con ông ông Nguyễn Văn Thuận, xã Tế Tiêu, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.

 

 

 13. 4.1.55 -   Cao Công huý

                          Xuân Dưỡng, hiệu Phúc Thực.

     Sinh năm:    Nhâm Tý (1972), Xóm 1 Hùng Tiến.

     Mất ngày:   11 - 10  năm Đinh Hợi (2007), hưởng 36 tuổi.

     Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ tư cụ Cao Trung Tôn, làm nông nghiệp ở quê.

     Bà Hoàng Thị Cài.

     Sinh năm:     Nhâm Tý (1972), Xóm 1 Hùng Tiến.

     Bà là con gái cụ Hoàng Văn Rao ở Xóm 1 Hùng Tiến.

     Ông bà sinh được 1 con trai, 2 con gái:

     Con trai:              - Cao Văn Sinh, sinh và mất năm 1993.

     Hai con gái:

           - Thứ nhất là  Cao Thị Diễm, sinh năm 1996. Chồng là Vũ Hồng Quân, con ông Vũ Văn Hải, xã Hợp Thành, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Sinh được 2 con trai.

            - Thứ hai là Cao Thị Như Quỳnh, sinh năm 2001. Năm 2019 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ. Từ năm 2019 học Đại học Ngành QTKD, Viện Kinh tế và Quản lý ĐHBK Hà Nội.

 

 

 13. 4.1.56 -        Ông Cao Thanh Bình.

     Sinh năm:    Ất Tỵ (1965), Xóm 1 Hùng Tiến.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Hữu Nghị. Năm 1981 - 1984 tham gia Quân đội. Năm 1984 ra quân về làm ăn, sinh sống tại quê và làm nghề thợ

mộc ở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

          Bà Phạm Thị Dịu.

     Sinh năm:    Giáp Dần (1974).

     Bà là con gái cụ Phạm Văn Châu, thôn Đoàn Kết.

     Ông bà sinh được 2 con trai:

                  - Trưởng là Cao Văn Phong.

                  - Thứ hai là Cao Văn Trung.

 

 

     13. 4.1.57 -       Ông Cao Thanh Thường.

     Sinh năm:    Giáp Dần (1974), Xóm 1 Hùng Tiến.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Hữu Nghị, làm thợ mộc ở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La và ở quê.

     Bà Hoàng Thị Mây.

     Sinh năm:    Kỷ Mùi (1979), Xóm 1 Hùng Tiến.

     Bà là con gái cụ Hoàng Hải ở Xóm 1 Hùng Tiến.

     Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

     Con trai:                  - Cao Hoàng Hiếu.

     Con gái:   

                   - Cao Thị Hải Ly, sinh năm 1998. Năm 2016 tốt nghiệp THPT, từ năm 2016 học Trường Đại học Y Thái Bình.

 

 

 13. 4.1.58 -       Ông Cao Trường Giang.

      Sinh năm:    Đinh Tỵ (1977), Xóm 1 Hùng Tiến.

      Ông là con thứ ba cụ Cao Hữu Nghị, làm thợ mộc ở huyện Sông Mã,

tỉnh Sơn La và ở quê.

      Bà Lê Thị Hạnh.

      Sinh năm:    Kỷ Tỵ (1989).

      Bà là con gái ông Lê Trung Hà, Xóm 16, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Năm 2007 tốt nghiệp THPT, năm 2007 - 2012 học Trường Đại học SPKT Nam Định. Hiện nay làm cán bộ Văn phòng Đảng uỷ xã Nặm Păm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.

     Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

     Con trai:                      - Cao Lê Đan Nguyên.

     Con gái:   

                     - Cao Lê Đan Nhi, sinh ngày 9 - 8 - 2012, xã Giao Tiến.

 

 

 13. 4.1.59 -        Ông Cao Thanh Sơn.

     Sinh năm:    Bính Dần (1986), xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ.

          Ông là con trai cả bà hai cụ Cao Hữu Nghị. Hiện nay làm doanh nghiệp xây dựng Xuân Phương, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

     Bà Trần Thị Phượng.

     Sinh năm:     Đinh Mão (1987).

      Bà là con gái ông Trần Quang Xá, thị trấn Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Hiện nay làm Dược sỹ ở Bệnh viện Tây An, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

     Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

     Con trai:                      - Cao Trần Quốc Bảo.

          Con gái: 

                           - Cao Nhã Phương, sinh ngày 4 - 8 - 2015 ở Lai Châu.

 

 

 13. 4.1.60 -         Ông Cao Thanh Nam.

     Sinh năm:     Canh Ngọ (1990), xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ.

      Ông là con trai thứ hai bà hai cụ Cao Hữu Nghị, kinh doanh dịch vụ xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

      (đã ly hôn)

      Ông bà sinh được 1 con gái:

                       - Cao Thị Thanh Trúc, sinh ngày 2 - 3 - 2015 ở Nghệ An.

 13. 4.1.61 -          Ông Cao Bảo Anh.

      Sinh ngày:   15 - 5 - 1969 (Kỷ Dậu), thành phố Hà Nội.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Anh Long. Tốt nghiệp Trường THPT Cao Bá Quát, Gia Lâm, Hà Nội. Năm 1992 tốt nghiệp Kỹ sư Chế tạo máy Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1999 văn bằng 2 Cử nhân Kinh tế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Thạc sỹ ngành Chính sách Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Năm 1993 - 2003 chuyên viên Phòng Khoa học Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ, Hà Nội. Năm 2003 đến nay là chuyên viên Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Công Thương. Gia đình ở phường Trung Tự, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

     Bà Phan Thị Thanh Bích.

     Sinh ngày:    17 - 2 - 1972 (Nhâm Tý).

     Bà quê ở xã Minh Đạo, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

     Năm 1991 - 1995 học Trường Đại học Hà Nội, Cử nhân Anh văn. Năm 2002 văn bằng 2 Cử nhân Kinh tế Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Từ năm 2005 làm việc ở Trung tâm Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Viện Kiến trúc quy hoạch Đô thị &Nông thôn, Thành phố Hà Nội.

     Ông bà sinh được 2 con gái:

           - Thứ nhất là Cao Thị Trung Anh, sinh năm 1998

           - Thứ hai là Cao Thị Diệu Quyên, sinh năm 2003.

 

 

     13. 4.1.62 -          Ông Cao Việt Anh.

     Sinh ngày:   21 - 12 - 1970 (Canh Tuất), thành phố Hà Nội.

     Ông là con trai thứ hai cụ Cao Anh Long. Năm 1987 - 1992 học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tốt nghiệp Kỹ sư Hóa Thực phẩm. Năm 1992 - 1994 giảng dạy ở Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Năm 1994 - 2000 làm việc ở Công ty Chế biến, Kinh doanh Dầu mỏ thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Học và lấy bằng Cao cấp chuyên ngành Bảo hiểm Nhân thọ, Viện Quản lý Bảo hiểm Nhân thọ Hoa Kỳ cấp. Năm 2002 đến nay làm việc cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ MANULIFE của Canada với các cương vị: Chuyên viên Đào tạo, Giám đốc Kinh doanh của công ty ở Đà Nẵng, Giám đốc Kinh doanh của công ty tại Hà Nội, Giám đốc Kinh doanh cao cấp phụ trách 2 văn phòng Hà Nội và Hải Phòng. Gia đình ở đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.

          Bà Hà Lan.

     Sinh năm:    Giáp Dần (1974).

     Bà quê ở thành phố Bắc Giang. Cử nhân Kinh tế năm 1994, Thạc sỹ Kinh tế năm 2009, Học viện TC Hà Nội. Năm 1994 - 2002 làm việc ở Công ty Chế biến Kinh doanh sản phẩm Dầu mỏ. Năm 2002 đến nay làm việc Tổng Công ty Bảo hiểm Dầu khí, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam các vị trí: Phó Trưởng phòng Kế toán, Trưởng phòng Kế toán, Trưởng ban Kiểm soát.

     Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                     - Cao Anh Đức.

  Con gái:        - Cao Hà Châu Anh, sinh năm 1999.

 

 

 13. 4.1.63 -        Ông Cao Thế Anh.

     Sinh ngày:    10 - 5 - 1978 (Mậu Ngọ).

     Ông là con trai cụ Cao Đức Hải. Năm 2001 tốt nghiệp Cử nhân Kinh

tế, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Năm 2002 - 2005 làm việc ở Ngân hàng Chính sách Xã hội, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Năm 2005 - 2009 làm việc tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thanh Hóa. Năm 2009 làm ở Phòng Tổ chức Hành chính, Khu Liên hợp lọc, hóa dầu Nghi Sơn, Thanh Hóa. Gia đình ở Số nhà 8/449 đường Bà Triệu, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa. Từ năm 2021 gia đình chuyển vào Phường 10, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, mở Công ty TNHH kinh doanh Vật tư Nông Nghiệp.

     Bà Hoàng Thị Hồng.

     Sinh năm:    Ất Sửu (1985).

     Năm 2007 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế ngành Kế toán tại Học viện TCKT. Năm 2007 làm việc cho Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thanh Hóa.

   Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.   

   Con trai:               - Cao Hoàng Gia Bảo.

   Con gái:     - Cao Hoàng Bảo Châu. Sinh ngày 6 - 12 - 2013, Thành phố TH.

 

 

      13. 4.1.64 -      Ông Cao Đức Anh.

     Sinh ngày:   7 - 2 - 1992  (Nhâm Thân), thành phố Đà Nẵng.

      Ông là con trai cụ Cao Đức Dũng. Năm 2010 tốt nghiệp THPT. Năm

2010 - 2014 học và tốt nghiệp Trường ĐHSP thuộc Đại học Đà Nẵng. Từ

năm 2015 đến nay là giảng viên Trường ĐHSP Đà Nẵng.

    Bà Phạm Mỹ Hạnh

    Sinh ngày:   29 - 1 - 1992 (Nhâm Thân), Thành phố Đà Nẵng.

    Bà là con gái cụ Phạm....        Hiện nay đang công tác tại Trung tâm phát triển Giáo dục và hoà nhập Thành phố Đà Nẵng.

   Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

   Con trai:                    - Cao Gia Huy

   Con gái:      - Cao Hà Tư Di, sinh ngày 15 - 1 - 2020.

 

 

         Đ - CHI THỨ NĂM

 

     13. 5.1.65 -    Ông Cao Đinh Hùng Dương.

     Sinh ngày:    9 - 2 - 1977 (Đinh Tỵ), xã Giao Tiến.

      Ông là con trai trưởng cụ Cao Quang Bình. Năm 2005 học lớp đào tạo lái máy xúc ở tỉnh Ninh Bình. Hiện nay làm việc cho doanh nghiệp tư nhân Hợp Thành, tỉnh Cao Bằng.

     Bà Lưu Thị Tuyết Thanh

      Sinh ngày:    19 - 5 - 1976 (Bính Thìn), thị trấn Bảo Lạc, Cao Bằng.

      Bà là con gái cụ Lưu Văn Xéng, Khu 6, thị trấn Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Năm 1996 học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Tốt nghiệp về làm giáo viên ở Cao Bằng, đã làm Phó Hiệu trưởng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học thị trấn Bảo Lạc, nay làm Phó Trưởng phòng Giáo dục huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.

     Ông bà đã có 1 con trai:     - Cao Đinh Quang Vinh.

 

 

 13. 5.1.66 -         Ông Cao Đinh Dinh.

     Sinh ngày:    2 - 8 - 1979 (Kỷ Mùi), xã Giao Tiến.

      Ông là con trai thứ hai cụ Cao Quang Bình. Học lớp đào tạo lái xe ở Nam Phong, Nam Định. Hiện nay làm công nhân lái xe tải ở Công ty Thiết bị Điện máy Ngọc Hùng, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

     Bà Vũ Thị Thu Hiền

     Sinh ngày:    2 - 12 - 1984 (Giáp Tý), xã Giao Tiến.

     Bà là con gái cụ Vũ Văn Khang, Xóm 1 Quyết Thắng. Năm 2002

học Trường Đại học Thuỷ sản Nha Trang, năm 2012 Tốt nghiệp Thạc sỹ ngành Bảo tồn Động vật quý hiếm. Hiện nay làm việc tại Phòng Phân loại Nguồn gen thuộc Viện KH&CN Việt Nam.

     Ông bà sinh được 1 con gái:

             - Cao Đinh Bảo Quyên, sinh ngày 23 - 1 - 2017.

 

 

13. 5.1.67 -         Ông Cao Đinh Doanh.

     Sinh ngày:   3 - 10 - 1981 (Tân Dậu), xã Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ ba cụ Cao Quang Bình. Năm 2000 học lớp đào tạo lái xe ở tỉnh Ninh Bình. Hiện nay làm công nhân lái xe tải ở tỉnh Cao Bằng.

     Bà Nhâm Thị Tố Oanh.

     Sinh ngày:   10 - 8 - 1986 (Bính Dần), xã Vĩnh Phong, Bảo Lâm.

      Bà là con gái cụ Nhâm Văn Kim, dân tộc Tày, xã Vĩnh Phong, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng. Học Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo TW, nay làm nghề may mặc.

     Ông bà đã sinh được: 1 con trai, 1con gái.

  Con trai:                  - Cao Đinh Đức Anh.

  Con gái:    - Cao Đinh Thuỳ Phương, sinh ngày 23 - 3 - 2017.

 

 

 13. 5.1.68 -         Ông Cao Đinh Giang.

     Sinh ngày:    18 - 8 - 1983 (Quý Hợi), xã Giao Tiến.

     Ông là con trai thứ tư cụ Cao Quang Bình. Năm 2001 đi nghĩa vụ Quân sự. Năm 2005 học lớp đào tạo lái xe ở tỉnh Ninh Bình. Hiện nay làm nghề lái xe khách ở tỉnh Cao Bằng.

     Bà Lê Thị Mai Liên.

     Sinh ngày:    22 - 12 - 1983 (Quý Hợi), thành phố Cao Bằng.

      Bà là con gái cụ Lê Văn Quang, Tổ 8, phường Tân Giang, thành phố Cao Bằng. Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tài chính Kế toán, tỉnh Cao Bằng. Làm việc ở cửa hàng bán thuốc Tân dược thành phố Cao Bằng, nay về quê

chồng làm ở Công ty may Xuất khẩu.

     Ông bà đã sinh được 1 con trai:  

                                   -  Cao Đinh Hồng Phúc. 

 

     13. 5.1.69 -         Ông Cao Đình Bản.

          Sinh năm:    Canh Ngọ (1990), xã Giao Tiến.

           Ông là con trai cụ Cao Đình Ban. Năm 2008 - 2013 học Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội, ngành Công nghệ Thông tin. Từ năm 2013 - 2019 làm việc tại Công ty APATIT Lào Cai. Từ năm 2020 về làm việc trong lĩnh vực IT tại thành phố Hà Nội. Nhà ở Khu Tập thể 212 HVKTQS, phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

          Bà Hoàng Thị Giang

          Sinh ngày:    6 - 4 - 1991 (Tân Mùi).

          Bà là con gái cụ Hoàng Văn Hào cùng thôn. Năm 2009 tốt nghiệp THPT. Năm 2009  - 2014 học và tốt nghiệp Học viện Tài chính, Hà Nội. Từ năm 2015 đến nay làm việc ở Công ty TMCP CITICOM Hà Nội.

ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN

        

         A - CHI TRƯỞNG

 

 14. 1.1.1 -            Cao Minh Quý.

      Sinh ngày:    17 - 10 - 1975 (Ất Mão), thành phố Hà Nội.

     Là con trai ông Cao Trọng Hiền, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1992 tốt nghiệp THPT. Năm 1992 - 1993 học Trường ĐHGTVT Hà Nội. Năm 1993 - 2007 sang nước Cộng hòa Ba Lan học Đại học, Cao học và

làm luận án Tiến sỹ về Kinh tế. Từ năm 2007 đến nay làm việc ở Trường ĐHGTVT Hà Nội: Tiến sỹ, Phó Trưởng khoa Môi trường, An toàn Giao thông. Gia đình ở SN 9, Ngõ 97, đường Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Hà Nội. Năm 2013 chuyển đến ở nhà chung cư làng Việt kiều châu Âu, phường Mộ Lao, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Cùng với bố xây dựng khu lăng mộ gia đình (từ đời thứ 12), tại nghĩa trang Công viên Vĩnh hằng Ba Vì, Hà Nội.

     Vợ Nguyễn Thị Lệ Thủy.

     Sinh ngày:    21 - 12 - 1978 (Mậu Ngọ), thành phố Hà Nội.

      Con gái ông Nguyễn Văn Hiểu, Thành phố Hà Nội. Tốt nghiệp THPT năm 1995. Năm 1995 - 2005 học Đại học và Cao học tại nước Cộng hòa Ba Lan, tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Kinh tế công. Năm 2005 - 2008, làm việc tại Trung tâm Khoa học Công nghệ và môi trường Giao thông, Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Năm 2008, công tác tại Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

     Vợ chồng sinh được 1 con trai:    - Cao Minh Sơn      

 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                

     14.1.1.2 -            Cao Đức Huy.

     Sinh ngày:    23 - 10 - 1991 (Tân Mùi), thành phố Lào Cai.

     Là con trai trưởng ông Cao Văn Tham, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2009 tốt nghiệp THPT. Năm 2009 - 2014 học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 2014 tốt nghiệp Kỹ sư Điện, năm 2018 tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Điện. Từ năm 2014 đến nay làm việc ở Viện Năng lượng, Bộ Công Thương. Nhà ở Số 60A, Ngõ 663 Trương Định, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

     Vợ Phan Thị Xuân Thy.

     Sinh năm:    Mậu Dần (1998)

     Là con gái ông Phan Xuân Phúc, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, Bình Thuận. Năm 2021tốt nghiệp Đại học KHTN, Đại học Quốc gia Thành phố HCM. Hiện nay làm việc tại CT Xuất nhập khẩu LT Việt Nam ở Hà Nội.

 

 

     14. 1.1.3 -          Cao Việt Hoàng.

     Sinh ngày:    31 - 3 - 1998 (Mậu Dần), thành phố Lào Cai.

     Là con trai thứ hai ông Cao Văn Tham, cháu cụ Cao Khắc Khoan. 

Năm 2016 tốt nghiệp THPT, học Trường Đại học KTQD Hà Nội, năm 2020 tốt nghiệp bằng Cử nhân. Hiện đang học thêm Lập trình tại Hà Nội. 

      

 

     14. 1.1.4 -          Cao Việt Hùng.

     Sinh ngày:    27- 3 - 1993 (Quý Dậu), thành phố Lào Cai.

     Là con trai trưởng ông Cao Quốc Hóa, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2011 tốt nghiệp THPT. Năm 2011 - 2015 học Trường Đại học FPT Hà Nộị. Từ năm 2014 đến nay làm việc ở Công ty Phần mềm ORENDA, thành

phố Hà Nội. Gia đình ở ngõ Thịnh Quang, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

         Vợ Nguyễn Thị Thuỳ Dung.

         Sinh ngày:    4 - 11 - 1994 (Giáp Tuất), xã Thanh Tuyền.

          Con gái ông Nguyễn Tuấn Sự, xã Thanh Tuyền, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 2012 tốt nghiệp THPT. Năm 2016 tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, bằng Cử nhân, làm việc tại Công ty Bất động sản NEWSTARLAND ở thành phố Hà Nội.

         Vợ chồng sinh được 1 con trai:   - Cao Phúc Hưng.

 

       

     14. 1.1.5 -           Cao Thanh Tùng.

     Sinh ngày:    28 - 10 - 1994 (Giáp Tuất), thành phố Lào Cai.

     Là con trai thứ hai ông Cao Quốc Hóa, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2012 tốt nghiệp THPT. Năm 2012 - 2017 học Trường ĐHGTVT Hà Nội. Học bằng 2 Trường ĐHKTQD Hà Nội. Hiện nay làm kinh doanh ở Hà Nội. Nơi ở 60B, Nguyễn Huy Tưởng, P. Thanh Xuân B, Q. Thanh Xuân.

     Vợ Lê Thị Hà

     Sinh ngày:    6 - 9 - 1999 (Kỷ Mão).

     Là con gái ông Lê Đình Sơn, xã Thọ Lộc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tốt nghiệp ĐH Công nghiệp Hà Nội năm 2021, hiện nay cùng chồng làm kinh doanh tại thành phố Hà Nội.

     Vợ chồng sinh được 1 con trai:   - Cao

 

 

 14. 1.1.6 -             Cao Kỳ Long.

     Sinh ngày:    25 - 3 - 2008 (Mậu Tý), thành phố Lào Cai.

     Là con trai ông Cao Văn Viên, cháu cụ Cao Khắc Khoan.

 

 

     14. 1.1.7 -            Cao Quang Hưng.

     Sinh ngày:    11 - 4 - 1982 (Nhâm Tuất), thành phố Thái Nguyên.

      Là con trai ông Cao Đăng Rung, cháu cụ Cao Đăng Rong. Năm 2000 tốt nghiệp THPT. Năm 2000 - 2005 học Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2008 đến nay là Kỹ sư Tự động hóa, làm việc ở Xí nghiệp Khai thác Dầu khí, thuộc Liên doanh VIETSOPETRO. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu,

     Vợ Trần Thị Mai Lan.

     Sinh ngày:    22 - 11 - 1982 (Nhâm Tuất).

      Là con gái ông Trần Hải Thanh quê ở tỉnh Thái Bình. Cử nhân Kinh tế, công tác ở Sở Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cấp bậc Thiếu tá.

     Vợ chồng sinh được: 2 con trai, 1 con gái .

     Hai con trai:           - Cao Trần Phúc Thịnh.

                                    - Cao Trần Quốc Vượng.                       

     Con gái:    - Cao Ngọc Phúc An, sinh ngày 11 - 8 - 2015.

 

 

 14. 1.1.8 -            Cao Trần Quyết.

     Sinh ngày:    12 - 9 - 2001 (Tân Tỵ), thành phố Yên Bái.

     Là con trai trưởng ông Cao Bình Định, cháu cụ Cao Quốc Hữu. Năm 2019 tốt nghiệp THPT, Thành phố Yên Bái, học Trường ĐH Điện lực, Hà Nội.

 

 

     14. 1.1.9 -            Cao Minh Thắng.

     Sinh ngày:    8 - 3 - 2005 (Ất Dậu), thành phố Yên Bái.

     Là con trai thứ hai ông Cao Bình Định, cháu cụ Cao Quốc Hữu. Học Trường THPT, Thành phố Yên Bái.

 

 

     14. 1.1.10 -            Cao Đức Minh.

     Sinh ngày:    21 - 9 - 2012 (Nhâm Thìn), thành phố Yên Bái.

     Là con trai ông Cao Bình Cung, cháu cụ Cao Quốc Hữu.

 

 

 14. 1.2.11 -          Cao Hoàng Long

Sinh ngày:    23 - 8 - 1997 (Đinh Sửu), Bệnh viện Gang Thép, thành phố Thái Nguyên.

Là con trai bà Cao Thị Thanh Huyền và ông Lê Hùng Chiến Thành phố Hà Nội, cháu cụ Cao Quốc Sủng, làm kế tự ông Cao Quang Khải. Năm 2015 tốt nghiệp Trường THPT Lý Thái Tổ, Hà Nội. Năm 2015 - 2020 học Trường  ĐHCNGTVT  Hà Nội, Khoa Điện tử Viễn thông, tốt nghiệp bằng Kỹ sư. Năm 2020 - 2022 học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Viễn thông    Trường ĐHGTVT Hà Nội. Từ năm 2020 làm việc cho Tổng Công ty Truyền thông Đa phương tiện VTC ở Thành phố Hà Nội.

Nhà ở số 8, Ngõ 22, phố Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

       14. 1.2.12 -           Cao Ngọc Khánh.

     Sinh ngày:   18 - 1 - 1986 (1985, Ất Sửu), thôn Cộng Hòa.

     Là con trai trưởng ông Cao Xuân Thiện, cháu cụ Cao Ngọc Cờn. Năm 2003 tốt nghiệp Trường THPT Lê Hồng Phong, Nam Định. Năm 2003 - 2008 học hệ Kỹ sư Chất lượng cao ngành Đo lường và Tin học Công nghiệp Trường ĐHBK Hà Nội, tốt nghiệp loại giỏi. Từ năm 2008 đến nay là Kỹ sư Tự động hóa, làm việc tại các đơn vị: Tổng Công ty dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC); Công ty TNHH  PETRONAS, Việt Nam ở thành phố Vũng Tàu. Năm 2017 - 2018 học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ chuyên ngành Tự động hoá, Trường ĐHBK Hà Nội. Nhà A1017, Chung cư  HODECO, Số 36, Nguyễn Thái Học, thành phố Vũng Tàu.

     Vợ Bùi Thị Hương.

     Sinh ngày:    20 - 5 - 1987 (Đinh Mão), xã Thọ Nghiệp.

     Là con gái ông Bùi Đắc Tích, Xóm 7, xã Thọ nghiệp, huyện Xuân Trường. Năm 2005 tốt nghiệp THPT, học Trường Đại học Công đoàn, Khoa Kế toán, tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế. năm 2010 làm việc ở Công ty Khoan, Tổng Công ty dịch vụ Dầu khí (PVD), thành phố Vũng Tàu. 

    Vợ chồng sinh được 2 con gái:

- Thứ nhất là Cao Ngọc Hà, sinh ngày 3 - 8 - 2012.

- Thứ hai là Cao Linh Phương, sinh ngày 2 - 2 - 2017.

 

14. 1.2.13 -         Cao Ngọc Khương.

    Sinh ngày:    1 - 11 - 1993 (Quý Dậu), thị trấn Ngô Đồng.

    Là con trai thứ hai ông Cao Xuân Thiện, cháu cụ Cao Ngọc Cờn. Năm 2011 tốt nghiệp Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Nam Định. Năm 2011 - 2016 học hệ Kỹ sư Tài năng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tốt nghiệp loại giỏi chuyên ngành Điều khiển tự động. Năm 2016 làm việc tại Nhà máy Chế biến Khí Dinh Cố, Tổng Công ty PVGAS, thành phố Vũng Tàu. Từ tháng 10 năm 2020 chuyển ra Hà Nội học Cao học tại trường ĐH KHTN, Đại học QGHN.

     14. 1.2.14 -          Cao Minh Hoàng.

    Sinh ngày:    14 - 5 - 2000 (Canh Thìn), thành phố Đà Nẵng.

    Là con trai ông Cao Văn Chiến, cháu cụ Cao Chi Thừng. Năm 2018 tốt nghiệp THPT, học Khoa Điện tử Viễn thông, Trường ĐHBK Đà Nẵng.

 14. 1.2.15 -           Cao Văn Dũng.

    Sinh ngày:    2 - 11 - 1994 (Giáp Tuất), xã Giao Lạc.

     Là con trai ông Cao Văn Thắng, cháu cụ Cao Chi Thừng. Năm 2012

tốt nghiệp THPT. Năm 2013 nhập ngũ vào Lữ đoàn 161 vùng 3 Hải quân.

Năm 2014 - 2015 học Trung cấp Tàu thuyền, Quân chủng Hải quân. Tốt

nghiệp loại giỏi, cấp hàm Trung úy QNCN, công tác ở Lữ đoàn 161 Vùng 3 Hải quân, thành phố Đà Nẵng.

         Vợ Đỗ Nguyễn Ý Nguyên

         Sinh ngày:   25 - 3 - 1996 (Nhâm Tý).

          Là con gái ông Đỗ Đình Thể, thôn Nam Yên, xã Hoà Bắc, huyện Hoà vang, Thành phố Đà Nẵng. Năm 2014 tốt nghiệp THPT, năm 2014 - 2019 học Đại học Sư phạm Đà Nẵng, ra trường làm việc ở Thành phố Đà Nẵng.

        Vợ chồng đã có 1 con gái: 

                         - Cao Đỗ Nhã Quỳnh, sinh ngày 17 -  2 - 2021.

 

 14. 1.2.16 -          Cao Minh Phước.

    Sinh ngày:    29 - 4 - 2010 (Canh Dần), xã Giao Lạc.

     Là con trai ông Cao Văn Biên, cháu cụ Cao Chi Thừng.

  14. 1.2.17 -           Cao Vũ Lâm Giang.

     Sinh ngày:    29 - 4 - 2010 (Canh Dần), thành phố Lào Cai.

     Là con trai trưởng ông Cao Anh Hào, cháu cụ Cao Xuân Thế.

 

 14. 1.2.18 -          Cao Vũ Hoàng Bách.

          Sinh ngày:    15 - 3 - 2018 (Mậu Tuất), thành phố Lào Cai.

     Là con trai thứ hai ông Cao Anh Hào, cháu cụ Cao Xuân Thế.

     14. 1.2.19 -             Cao Trần Ngọc.

     Sinh ngày:    6 - 2 - 2000 (Canh Thìn), thôn Cộng Hòa.

      Là con trai trưởng ông Cao Ngọc Chinh, cháu cụ Cao Văn Tộ. Năm

2018 tốt nghiệp THPT thành phố Cao Bằng. Từ năm 2018 học Trường Đại học GREENWICH Việt Nam, Khoa Quản trị Maketing.

 

 

 14. 1.2.120 -             Cao Trần Bảo An.

     Sinh ngày:    4 - 7 - 2008 (Mậu Tý), thôn Cộng Hòa.

     Là con trai thứ hai ông Cao Ngọc Chinh, cháu cụ Cao Văn Tộ.

 

 

     14. 1.2.21 -             Cao Trường Sơn.

     Sinh ngày:    22 - 9 - 2000 (Canh Thìn), thôn Cộng Hòa.

      Là con trai ông Cao Văn Nhàn, cháu cụ Cao Văn Tộ. Năm 2015 tốt

nghiệp THCS, làm việc cho Công ty TNHH Nhinh Chinh, Thành phố Cao Bằng. Từ năm 2018 về làm ở Công ty May mặc Dệt kim SMART SHIRTS, Chi nhánh huyện Xuân Trường.

 

 

      14. 1.3.22 -             Cao Thanh Lâm.

  Sinh ngày:    9 - 12 - 2007 (Đinh Hợi), thành phố Lào Cai.

  Là con trai trưởng ông Cao Hải Long, cháu cụ Cao Bàng Đức.

 

 

     14. 1.3.23 -           Cao Nam Phong

          Sinh ngày:    6 - 1 - 2021 (Tân Sửu), thành phố Lào Cai.

          Là con trai bà hai ông Cao Hải Long, cháu cụ Cao Bàng Đức.

 

     14. 1.3.24 -           Cao Trường Giang.

          Sinh ngày:    12 - 9 - 2013 (Quý Tỵ), thị trấn Bát Xát.

          Là con trai trưởng ông Cao Văn Thành, cháu cụ Cao Trọng Đạt.

     14. 1.3.25 -           Cao Hiển Vinh.

          Sinh ngày :    30 - 7 - 2014 (Giáp Ngọ), thị trấn Bát Xát.

          Là con trai thứ hai ông Cao Văn Thành, cháu cụ Cao Trọng Đạt.

 

 

     14. 1.3.26 -           Cao Phúc Nguyên.

          Sinh ngày:    1 - 12 - 2015 (Ất Mùi), thôn Tân Bảo, xã Bản Qua.

          Là con trai ông Cao Văn Hưng, cháu cụ Cao Kỳ Lân.

 

 

     14. 1.4.26 -            Cao Quang Anh.

     Sinh ngày:    19 - 9 - 1983  (Quý Hợi), thôn Việt Dũng.

      Là con trai ông Cao Văn Thục, cháu cụ Cao Văn Quy, làm nghề thợ

mộc ở phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

     Vợ Nguyễn Thị Hiếu.

     Sinh năm:    Tân Dậu (1981).

     Là con gái ông Nguyễn Văn Trung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Hiện nay cùng với chồng ở thành phố Cần Thơ.

     Vợ chồng đã sinh được: 1 con trai, 1 con gái.

    Con trai:                 - Cao Trần Phú.

          Con gái:  

                      - Cao Ngọc Duyên, sinh ngày 14 - 3 - 2011, Thành phố Cần Thơ.

 

 

     14. 1.4.28 -            Cao Hoàng Nguyên.

         Sinh ngày:    7 - 11 - 2021 (Tân Sửu), xã Bạch Long.

         Là con trai ông Cao Văn Sỹ, cháu cụ Cao Văn Minh.

 

         B - CHI THỨ HAI

 

     14. 2.2.29 -         Cao Đặng Bảo Châu.

        Sinh năm:    Nhâm Thân (1992).

          Là con trai ông Cao Trung Hiếu, cháu cụ Cao Trung Chính. Hiện làm việc ở 24H Số 1209, Huỳnh Tấn Phát, P. Phú Nhuận, Quận 7, Thành phố HCM.

 

     14. 2.2.30 -            Cao Thế Khang.

           Là con trai ông Cao Thế Minh, cháu cụ Cao Trung Chính, ở thành

phố Hồ Chí Minh.

 

 

     14. 2.2.31 -        Cao Đặng Kim Hoàng.

          Sinh năm:    Nhâm Ngọ (2002).

          Là con trai ông Cao Trọng Tuấn, cháu cụ Cao Trung Chính, ở thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

     14. 2.2.32 -          Cao Võ Hải Trường.

          Sinh năm:   Tân Mão (2011).

          Con trai ông Cao Trần Hải, cháu cụ Cao Trung Chính, ở Thành phố HCM.

 

 

     14. 2.2.33 -          Cao Trung Nguyên.

          Sinh năm:   Giáp Ngọ (2014), xã Điền Hải, huyện Đông Hải.

          Là con trai ông Cao Đông Cương, cháu cụ Cao Đông Thiện.

 

 

     14. 2.2.34 -              Cao Phước Lộc.

           Sinh ngày:   28 - 8 - 2018 (Mậu Tuất), xã Điền Hải, Đông Hải.

          Là con trai ông Cao Thiên Tài, cháu cụ Cao Đông Thiện.

 

 

         C - CHI THỨ BA

      14. 3.1.35 -           Cao Thiên Phúc.

         Sinh ngày:   3 - 2 - 2021 (Tân Sửu), Thành phố Hồ Chí Minh.

         Là con trai ông Cao Huy Hoàng, cháu cụ Cao Song Hảo.

  

          D - CHI THỨ TƯ

  14. 4.1.36 -             Cao Trọng Đại.

          Sinh năm:    Nhâm Tý (1972), xã Giao Tiến.

           Là con trai trưởng ông Cao Quang Chức, cháu cụ Cao Trung Tôn. Năm 1990 - 1993 tham gia Quân đội, cấp bậc Hạ sỹ. Hội viên HCCB Việt

Nam, xã Giao Tiến; Giám đốc Công ty TNHH Tiến Đạị.

     Vợ Nguyễn Thị Quyên.

          Sinh năm:   Quý Sửu (1973).

     Là con gái ông Nguyễn Đình Mân.

     Vợ chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:            - Cao Đình Duẩn.

  Con gái:   

                - Cao Thị Phương Hoa, sinh năm 1996. Năm 2014 tốt nghiệp THPT, năm 2014 - 2018 học Trường Đại học Luật Hà Nội. Hiện nay làm việc ở Văn phòng Công chứng Thăng Long, Thành phố Hà Nội. Chồng là Nguyễn Thế Hùng, sinh năm 1996, con ông Nguyễn Văn Tuấn ở thôn Duyên Thọ xã Giao Nhân, huyện Giao Thủy.


     14. 4.1.37 -             Cao Quang Học.

          Sinh năm:    Ất Mão (1975), xã Giao Tiến.

      Là con trai thứ hai ông Cao Quang Chức, cháu cụ Cao Trung Tôn. Tốt nghiệp THPT, lập gia đình, làm nghề may mặc ở quê.

     Vợ Lê Thị Loan.

     Sinh năm:    Mậu Ngọ (1978), Xóm 1 Hùng Tiến

     Là con gái ông Lê Văn Phòng ở Xóm 1 Hùng Tiến.

     Vợ chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                - Cao Quang Trường.

  Con gái:        

                - Cao Thị Thùy Linh, sinh năm 1997. Năm 2015 tốt nghiệp THPT. Năm 2015 - 2019 học Trường ĐHCN GTVT, Hà Nội. Năm 2019 đến nay làm ở Công ty FPT Chi nhánh Thạch Thất, Hà Nội. Chồng Trần Văn Hùng con ông Trần Đức Lợi, xã Bình Yên, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Sinh 1 con gái và 1 con trai.

  14. 4.1.38 -             Cao Xuân Khoát.

         Sinh năm:    Nhâm Tuất (1982), xã Giao Tiến.  

     Là con trai thứ ba ông Cao Quang Chức, cháu cụ Cao Trung Tôn. Hiện nay làm cán bộ Viện KSND huyện Xuân Trường.

     Vợ Lê thị Thúy.

     Sinh năm:    Nhâm Tuất (1982), xã Thọ Nghiệp.

      Là con gái ông Lê Văn Tiến, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Hiện nay làm giáo viên Trường Mầm non Khu B, xã Giao Tiến.

     Vợ chồng sinh được: 1 con trai, 1 con gái:

     Con trai:                   - Cao Phúc Hưng.

  Con gái:     - Cao Phương Anh, sinh năm 2007.

 

      14. 4.1.39 -            Cao Đức Ảnh.

     Sinh năm:    Nhâm Tuất (1982), xã Giao Tiến.

      Là con trai ông Cao Xuân Vĩnh, cháu cụ Cao Trung Tôn. Hiện nay làm kinh doanh tại thị trấn Bắc Qua, tỉnh Hà Giang.

     Vợ Vũ Thị Phượng.

     Sinh năm:    Giáp Tý (1984), thôn Quyết Thắng.

     Là con gái ông Vũ Văn Phương, thôn Quyết Thắng.

     Vợ chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.

  Con trai:                      - Cao Tấn Tài.

  Con gái:          - Cao Thị Ánh Diệu, sinh năm 2002.

 

 

      14. 4.1.40 -            Cao Trọng Duy.

          Sinh năm:    Nhâm Thân (1992), xã Giao Tiến.

          Là con trai Ông Cao Xuân Dương, cháu cụ Cao Trung Tôn. Năm 2010 tốt nghiệp THPT, học Trường Cao đẳng Công nghệ Nam Định. Hiện nay làm tại Khu Công nghiệp Sam Sung, Thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

     Vợ Hoàng Thị Mai

     Sinh năm:    Bính Tý (1996), thị trấn Liễu Đề.

      Là con gái ông Hoàng Văn Khải, thị trấn Liễu Đề, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Năm 2014 tốt nghiệp THPT. Năm 2014 - 2016 học Trung cấp Dược, Trường Y tế Nam Định. Hiện nay làm kinh doanh tại thành phố Hà Nội.

     Vợ chồng sinh được: 1 con trai, 1 con gái:

     Con trai:                    - Cao Hoàng Gia Bảo

     Con gái:     - Cao Hoàng Linh Nhi, sinh ngày 23 - 11 - 2019.

 

 

 14. 4.1.41 -            Cao Văn Phong.

          Sinh ngày:    9 - 2 - 1996 (Bính Tý), xã Giao Tiến.

     Là con trai trưởng ông Cao Thanh Bình, cháu cụ Cao Hữu Nghị. Năm 2014 tốt nghiệp THPT, được tuyển vào Công an nghĩa vụ. Hiện nay công tác tại C50, Bộ Công an.

 

 

 14. 4.1.42 -             Cao Văn Trung.

          Sinh ngày:    18 - 8 - 1998 (Mậu Dần), xã Giao Tiến.

     Là con trai thứ hai ông Cao Thanh Bình, cháu cụ Cao Hữu Nghị. Năm 2016 tốt nghiệp THPT. Từ năm 2016 học Trường Đại học Mỏ - Địa chất ở Thành phố Hà Nội.

 

 

 14. 4.1.43 -           Cao Hoàng Hiếu.

          Sinh ngày:    31 - 7 - 2007 (Đinh Hợi), xã Giao Tiến.

     Là con trai ông Cao Thanh Thường, cháu cụ Cao Hữu Nghị.

 

 

 14. 4.1.44 -         Cao Lê Đan Nguyên.

          Sinh ngày:    25 - 5 - 2017 (Đinh Dậu), xã Giao Tiến.

     Là con trai ông Cao Trường Giang, cháu cụ Cao Hữu Nghị.

 

 

 14. 4.1.45 -          Cao Trần Quốc Bảo.

     Sinh ngày:    2 - 2 - 2020 (Canh Tý), Lai Châu.

     Là con trai ông Cao Thanh Sơn, cháu cụ Cao Hữu Nghị.

 

 

      14. 4.1.46 -              Cao Anh Đức.

          Sinh năm:    1 - 11 -  2006 (Bính Tuất), Thành phố Hà Nội.

          Là con trai ông Cao Việt Anh, cháu cụ Cao Anh Long.

 

 

     14. 4.1.47 -         Cao Hoàng Gia Bảo.

          Sinh năm:    12 - 2 - 2008 (Mậu Tý), Thành phố Thanh Hoá.

  Là con trai ông Cao Thế Anh, cháu cụ Cao Đức Hải.

 

 

     14. 4.1.48 -        Cao Gia Huy

        Sinh ngày:    17 - 1 - 2015 (Ất Mùi), Thành phố Đà Nẵng.

          Là con trai ông Cao Đức Anh, cháu cụ cụ Cao Đức Dũng.

 

 

     Đ - CHI THỨ NĂM

 

14. 5.1.49 -        Cao Đinh Quang Vinh.

     Sinh ngày:    22 - 11 - 2014 (Giáp Ngọ), TT. Bảo Lạc, Cao Bằng.

     Là con trai ông Cao Đinh Hùng Dương, cháu cụ Cao Quang Bình.

 

 

 14. 5.1.50 -             Cao Đinh Đức.

     Sinh ngày:    15 - 6 - 2008 (Giáp Ngọ), xã Giao Tiến.

     Là con trai ông Cao Đinh Doanh, cháu cụ Cao Quang Bình.

 

 

 14. 5.1.51 -        Cao Đinh Hồng Phúc.

     Sinh ngày:    9 - 2 - 2009 (Kỷ Sửu), xã Giao Tiến.

     Là con trai ông Cao Đinh Giang, cháu cụ Cao Quang Bình.

 

 

 

ĐỜI THỨ MƯỜI NĂM

 

      A - CHI TRƯỞNG

 

     15. 1.1.1 -             Cao Minh Sơn.

Sinh ngày:    30 - 3 - 2007 (Đinh Hợi), thành phố Hà Nội.

Là con trai Cao Minh Quý, cháu ông Cao Trọng Hiền.

 

 

     15. 1.1.2 -             Cao Phúc Hưng

Sinh ngày:    10 - 2 - 2021 (Tân Sửu), thành phố Hà Nội.

Là con trai Cao Việt Hùng, cháu ông Cao Quốc Hóa.

 

 

     15. 1.1.3 -             Cao Hoàng Bách

Sinh ngày:    5 - 3 - 2022 (Nhâm Dần), thành phố Hà Nội.

Là con trai Cao Thanh Tùng, cháu ông Cao Quốc Hóa.

 

 

     15. 1.1.4 -         Cao Trần Phúc Thịnh.

Sinh ngày:    5 - 5 - 2018 (Mậu Tuất), thành phố Vũng Tàu.

Là con trai trưởng Cao Quang Hưng, cháu ông Cao Đăng Rung.

 

 

     15. 1.1.5 -         Cao Trần Quốc Vượng.

Sinh ngày:    9 - 7 - 2021 (Tân Sửu), thành phố Vũng Tàu.

Là con trai thứ hai Cao Quang Hưng, cháu ông Cao Đăng Rung.

 

 

     15. 1.4.6 -             Cao Trần Phú.

Sinh ngày:    6 - 10 - 2008  (Canh Tý), thành phố Cần Thơ.

Là con trai  Cao Quang Anh, cháu ông Cao Văn Thục.

  

      D - CHI THỨ TƯ

      15. 4.1.7 -            Cao Đình Duẩn.

          Sinh ngày:   15 - 12 - 1993  (Quý Dậu), xã Giao Tiến.

           Là con trai Cao Trọng Đại, cháu ông Cao Quang Chức. Năm 2011 tốt nghiệp THPT, học Trường Đại học FPT Hà Nội. Hiện nay làm việc tại Hội sở Hà Nội, Ngân hàng Tiên Phong TP-Bank.

Nhà ở: Số 8A ngõ 1299 đường Giải Phóng, phường Thịnh Liệt quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

  

     15. 4.1.8 -           Cao Quang Trường.

          Sinh ngày:   10 - 1 - 2001  (Tân Tỵ), xã Giao Tiến.

          Là con trai Cao Quang Học, cháu ông Cao Quang Chức.

 

      15. 4.1.9 -             Cao Phúc Hưng.

         Sinh ngày:   10 - 6 - 2014  (Giáp Ngọ), xã Giao Tiến.

         Là con trai Cao Xuân Khoát, cháu ông Cao Quang Chức.

 

      15. 4.1.10 -              Cao Đức Tài.

         Sinh ngày:   10 - 5 - 2007  (Đinh Hợi), xã Giao Tiến.

         Là con trai Cao Đức Ảnh, cháu ông Cao Xuân Vĩnh.

 

      15. 4.1.11 -      Cao Hoàng Gia Bảo

         Sinh ngày:   10 - 2 - 2022 (Nhâm Dần), xã Giao Tiến.

         Là con trai cao Trọng Duy, cháu ông Cao Xuân Dương.

1 nhận xét:

  1. Trang Gia phả 5 là trang Gia phả chi họ Tổ Cao Đức Bằng. Trang Gia phả 6 là trang Gia phả Chi họ Tổ Cao Đức Thiệm. Hai Chi này thuôc Phái thứ (Ất phái), Cành trưởng.
    Trong toàn dòng họ có 2 Cành: trưởng, thứ (9 Phái) có trên 300 Chi họ dữ liệu chi tiết rất lớn, chưa có đủ tài liệu chi tiết để biên tập cập nhật trên Blog. Kính mong các Chi các Phái biên tập để cập nhật cug cấp thông tin rộng rãi cho con cháu trong dòng họ.
    Vì vậy nhiều con cháu không thể tìm thấy phần Gia phả cua gia đình mình trên Blog. Từ đời thứ 11 đến đời thứ 16, cơ bản là còn thiếu.

    Trả lờiXóa