Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

VIẾT VỀ TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN

 Thân thế sự nghiệp Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn do hậu duệ của Người biên soạn lần đầu vào tháng 4/2011. Đây là tập sách quý được sưu tập, nghiên cứu, phân tích và biên tập công phu.
Song với tinh thần góp ý, bổ sung nhằm làm sáng tỏ hơn sự nghiệp cao cả của Người, tôi xin được tham gia mấy ý kiến nhỏ như sau:

1. Về lời bình của các tác giả đương đại: Trần Quốc Vượng – Nguyễn Quang Trung Tiến – Thiều Việt:
Trước hết xét về hai tác giả Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên người trực tiếp biên soạn ĐVSKTT từ Kỷ Nhà Trần đến Kỷ Nhà Lê. Trong đó Quyển X (BK10) có liên quan trực tiếp đến thân thế sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn:
Phan Phu Tiên: Đỗ Thái học sinh vào khoa thi cuối cùng của triều Trần năm 1396, rồi lại trúng tuyển kỳ thi Minh kinh đầu triều Lê năm 1429. Ông giữ chức An phủ phó sứ phủ Thiên Trường, từ năm 1448 về Kinh làm Quốc tử giám bác sĩ tri Quốc sử viện. Diên Ninh năm thứ 2 (1455), Lê Nhân Tông “sai Phan Phù Tiên soạn Đại Việt sử ký từ Trần Thái Tông đến khi người Minh về nước” (BK11, 90a). Lời tựa của Ngô Sĩ Liên trong ĐVSKTT cũng nói rõ: “Bản triều, Nhân Tông lại sai quan Tu sử Phan Phu Tiên chép tiếp từ Trần Thái Tông trở xuống cho đến khi người Minh về nước, đều gọi là Đại Việt sử ký
Ngô Sĩ Liên: Đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3/1442, đời Lê Thái Tông (1434 – 1442), giữ chức Đô ngự sử đời Lê Nhân Tông (1443 – 1459), rồi Lễ bộ Hữu thị lang, Triều liệt đại phu, kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn đời Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Năm 1479, Lê Thánh Tông “sai Sử quan tu soạn Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, 15 quyển” (BK13, 17). Toàn văn bài tựa bộ ĐVSKTT năm 1479 của Sử thần Ngô Sĩ Liên  (Tập I/ ĐVSKTT/2004), cho thấy Phan Phu Tiên sinh thời từ cuối triều Trần đến cuối triều Lê Nhân Tông. Ngô Sĩ Liên làm quan xuyên suốt từ năm đầu Lê Thái Tổ đến cuối triều Lê Thánh Tông, hai tác giả có sự chênh lệch về tuổi tác nhưng cơ bản cùng thời với Trần Nguyên Hãn kháng chiến chống quân Minh, đã kế nối nhau biên soạn chính sử.
Quyển X: kỷ Nhà Lê – Thái Tổ Cao Hoàng Đế do Phan Phu Tiên biên soạn từ mốc năm 1418, đến năm người Minh rút về nước (1427), Ngô Sĩ Liên biên soạn kế tiếp đến cận đại của đương triều. Đối với Trần Nguyên Hãn vị tướng tài, gan dạ trong trận mạc được Phan Phu Tiên ghi chép tương đối rõ. Nhưng đến Ngô Sĩ Liên biên soạn, Trần Nguyên Hãn chỉ thấy xuất hiện một lần duy nhất vào ngày 18/03/1428, đại hội các tướng và các quan văn võ để định công ban thưởng (Lần thứ 2 này chỉ ban thưởng cho 3 vị: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo). Sau đó mãi đến kỷ Thái Tông Văn Hoàng Đế, Trần Nguyên Hãn mới được nhắc lại dưới dạng viết gián tiếp nhân sự kiện của người khác có liên quan đến ông.
Điều này, cho thấy Trần Nguyên Hãn hưu quan sau ngày chiến thắng và cái chết sau đó của Ngài là do hành vi bất nghĩa của triều thần trong đó có vua. Cho nên đến cả Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng không dám chép ngày tháng năm và nơi Trần Nguyên Hãn trầm mình vào sử. Nhưng với đức độ và tài nghệ của vị sử thần lão thành, Ngô Sĩ Liên đã ghi chép được hoàn cảnh, nguyên nhân cơ bản dẫn đến cái chết của Trần Nguyên Hãn. Đó là: “Thiệu Bình năm thứ 1/1434, tháng 2 ngày mùng 4: Trước kia Thái Tổ khi về già có nhiều bệnh, lại thêm Quận vương (Tư Tề) ngông cuồng, bậy bạ, vua thì còn trẻ thơ, mà Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đều có công lao giúp nước, rất được người đương thời trọng vọng. Nguyên Hãn lại là con cháu nhà Trần và Văn Xảo cũng là người kinh lộ, lo rằng sau này họ có chí khác, nên bên ngoài thì đối xử theo lễ tiết hậu, nhưng trong lòng lại rất ngờ vực hai người.
Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư đón biết ý vua, dâng sớ mật, khuyên Thái Tổ quyết ý giết đi. Nếu có ai không vui, bọn Quốc Khí liền chỉ vào họ mà bảo họ là bè đảng của hai nhà ấy, nên rất nhiều người bị xử tử và đày đi.....”.
Đến hơn 400 năm sau được vua Tự Đức (1848 – 1883) nhắc lại một lần nữa.

Kế hoạch hãm hại Trần Nguyên Hãn diễn ra theo kịch bản là: Ngày 21/2/1429, vua ra lệnh chỉ cho tướng hiệu và quân nhân các vệ quân năm đạo rằng: “Đến ngày 27 sẽ diễn tập chiến trận thủy, bộ, ai vắng mặt sẽ bị trị tội”. Ngày 26/02/1429, ra lệnh chỉ cho đại thần và các quan Hành khiển. Lại ra lệnh chỉ cho các ngôn quan, đều có nội dung tương tự là trấn an tình hình trong cả nước. Tiếp sau là hàng loạt lệnh chỉ cho các quan lộ, huyện, xã...Đã giúp chúng ta nhận ra việc Trần Nguyên Hãn trầm mình tại bến Đông Hồ vào ngày 26/02/1429 theo sử Sơn Đông là có căn cứ, các lệnh chỉ trong ngày 26/02, và sau đó là để trấn an tình hình sau cái chết oan của Trần Nguyên Hãn đang bị người đời lên án.

Đại Việt sử ký toàn thư (BK11, 90a) đã chép: Thái Hòa năm thứ 11 (1453). Mùa xuân tháng 2 ngày 21, đại xá.
Ngày 21 tháng 11, vua bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi miếu hiệu, đại xá. Từ tháng giêng năm sau đổi là Diên Ninh năm thứ nhất.
Các điều lệnh ân xá có: tăng chức 1 bậc cho các công thần Lê Lễ, Lê Bị, Lê Triện. cấp một trăm mẫu quan điền cho bọn Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khả, Lê Khiêm, Trịnh Khắc Phục, đồng thời cứu giúp những kẻ không vợ, góa chồng, mồ côi, cô đơn, và biểu dương những người chồng tiết nghĩa, người vợ trinh tiết.
Theo gia phả Sơn Đông, thì Trần Nguyên Hãn được vua Nhân Tông minh oan nhưng không thấy sử ghi chép. Hay chăng Người được đại xá vào ngày 21 tháng 2 năm Thái Hòa thứ 11, do Phan Phu Tiên quan Tu sử đề nghị, mở đường cho việc vua đích thân coi chính sự. Song với việc nhân dân xây dựng đến 3 đền thờ Trần Nguyên Hãn tại thôn Đa Cai, thôn Đức Lễ và tại làng Phan Lãng dưới triều Nhân Tông, và người con thứ (cũng có thể là út nam) là Trần Pháp Độ ra làm quan cũng là một minh chứng cho sự kiện người được minh oan.
Qua những dẫn chứng trên cho thấy Đại lão Sử thần Ngô Sĩ Liên (theo gia phả Ngài thọ 98 tuổi) người huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (tức không thuộc đồng hương Lam Sơn, Thanh Hóa) đã  khéo khéo ghi chép và giải thích về cái chết oan của vị tướng tài ba có công lớn với nước với dân. Trần Nguyên Hãn bị hãm hại là không thể tránh khỏi, bởi tâm trạng của Lê Lợi luôn lo ngại về ngôi báu của mình và con cháu mình, lại được nhóm nịnh thần Đinh Bang Bản tiếp sức, tạo cớ cho Lê Lợi thực hiện hành vi đại bất nghĩa đối với Trần Nguyên Hãn, một bậc kỳ tài đã giúp ông làm nên nghiệp lớn.
Sự kiện đau lòng diễn ra vào năm 1429, đến năm 1479, tức sau 50 năm được Sử thần Ngô Sĩ Liên thông qua thái độ phê phán nhóm nịnh thần, để tỏ lòng tôn kính vị anh hùng dân tộc, nhưng rất tiếc sự kiện Trần Nguyên Hãn được minh oan năm Diên Ninh lại không thấy ghi chép.
Sử cổ Sơn Đông chép:
 Thập đạo kinh luân mao ức lý nhân cựu trạch từ miếu:
Nếu những Hán tự sau đây đúng với nguyên bản gốc của sử làng Sơn Đông:
拾導經倫旄臆理湮舊宅祠廟.
Thì câu dịch nghĩa sẽ là:
Tấm lòng sau mười năm xông pha đi đầu nơi trận mạc, đã giành lại nước từ quân xâm lược. Ngài về lại ngôi nhà cũ đã lâu năm, sửa sang nơi thờ tự và nhà cửa.

( Mao: cờ mao có trang sức bằng lông bò tót, về sau thay bằng lông chim. Hàm chỉ cờ chủ tướng nơi chiến trận/ Ức: tấm lòng/ Kinh luân: giành lại được nước/ Thập đạo: 10 năm đi đầu xông pha chinh chiến/ : sửa sang/ Nhân: đã lâu năm/ Cựu: cũ/ Trạch: nhà/ Từ miếu: nơi thờ phụng tổ tiên).

Sử cổ Sơn Đông do hàng sĩ tử của làng Quan Tử ghi chép là khách quan, phù hợp với chính sử. Đã mô tả khá rõ tấm lòng thành thực của Người sau khi hưu quan về lại ngôi nhà xưa, trước hết lo việc sửa sang nơi thờ tự tổ tiên, cha mẹ đã dột nát sau nhiều năm không người hương khói, đến việc sửa sang nhà cửa. Công việc như còn đang dang dỡ thì bị triều đình đến vây bắt về kinh hãm hại.
Căn cứ những tư liệu khách quan trên thì nội dung lời bình của 3 tác giả đương đại, là sự xúc phạm đáng tiếc đến Đức vua Tả tướng quốc Tối linh tôn Thần cần phải được khắc phục.

2.     Về thời điểm hưu quan của Người:
Ngày 21/09/1428, Quy định phẩm tước của quan chức văn võ. Ban quốc tính cho các công thần. Thải quân già yếu, quy định biên chế quân ngũ.
Ngày 12/10/1428, ra lệnh cho các vệ quân đều đặt hỏa thủ làm chánh phó ngũ trưởng.
Thực chất những sự kiện trên là một cuộc cải cách quân đội, nhằm củng cố thực lực, ứng phó với tình thế khi đã tạo áp lực buộc Trần Nguyên Hãn đang giữ trọng trách Tả tướng quốc phải hưu quan. Vậy, Trần Nguyên Hãn hưu quan trong khoảng tháng 9/1429 là có cơ sở. Sau khi nghĩ hưu, công việc nhà còn đang dang dỡ, chưa một ngày nghỉ ngơi an hưởng thái bình, thì người bị triều đình hãm hại buộc phải trầm mình nơi bến Đông Hồ vào ngày 26/02/1429.

3.     Trần Nguyên Hãn đối với hai vua hậu Trần: Giản Định và Trùng Quang:
Năm 1410, Ngài đấy binh tại Rừng Thần, Sơn Đông, năm đó Ngài nhỏ nhất là 21 tuổi, lớn nhất là 25 tuổi (năm sinh của Ngài theo chính sử là 1390, theo gia phả là 1386). Cuộc khởi nghĩa của Giàn Định Đế (1407 – 1409) đã thất bại trước đó một năm nên không bàn việc phò Giản Định Đế. Kế theo là Trùng Quang Đế (1409 – 1413), do con của Nguyễn Cảnh Chân là Cảnh Dị, con Đặng Tất là Dung đều căm giận vì cha bị chết oan, đem quân Thuận Hóa về Thanh Hóa đón rước Trần Quý Khoáng Nhập nội thị trung đến Nghệ An lên làm vua. Năm 1409 tháng 3 ngày 17, vua lên ngôi tại Chi La (nay huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) đổi niên hiệu là Trùng Quang, lấy Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã.
Xét về sự kiện lập vua lên ngôi tại Chi La, trong điều kiện quân Minh chiếm đóng và cai trị đa phần lãnh thổ Đại Việt, từ Vĩnh Phúc đến Nghệ An lại xa xôi cách trở nên có thể chưa liên lạc được hoặc còn do dự thì thời cơ không còn, quân tướng nhà vua do bất hòa đã dẫn đến thất bại vào năm 1413.
Xét về tư tưởng và Thanh kiếm Gia bảo của Chiêu Minh Vương khi xưa được người mẹ truyền giáo, lại có vị Tướng già trợ giúp, làm quân sư, Trần Nguyên Hãn có thể thiếu tin về tài cầm quân của hai vị tướng trẻ cùng trang lứa là Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung.
Với hoàn cảnh khách quan đó, nhất là sự kiện lập vua lên ngôi tại Chi La, Ngài không dự phần vì không gian cách trở, khiến Ngài và nghĩa quân của mình không đến được với Trùng Quang Đế. Sau đó hai năm, Lê Lợi dấy binh tại Lam Sơn, lại được lời khuyên của Nguyễn Trãi người anh con cô nên diễn ra cuộc hội quân về với Lam Sơn, tôn Lê Lợi làm Minh chủ cùng nhau đánh quân xâm lược nhà Minh đến thắng lợi cuối cùng.
Hy vọng Ban biên tập cũng đã nhận được nhiều ý kiến góp ý khác nhau, trên cơ sở đó chọn lọc, bổ sung làm cho tập sách viết về Người được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sắp đến.
                                                                             Thanh Châu, ngày 07/03/2012.

                                                                      Thực hiện: TRẦN PHƯỚC BÌNH.




Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

TRÍCH GIA PHẢ DÒNG HỌ TRẦN NGUYÊN HÃN - NGHỆ AN

 ĐỆ NHẤT THẾ TỔ TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN
 (Đời thứ 12 của dòng họ Trần ở Việt Nam)
Trần Nguyên Hãn, sinh ngày: 1- 2 1390 (Canh Ngọ), tại làng Kẻ Gốm, nay là làng Quan Từ Đa Cao, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Cuối đời nhà Trần, Hồ Quý Ly lấn quyền, lũng loạn triều đình, lấn át vua Trần, tôn phái nhà Trần bị dồn ép và phân hóa. Cụ Trần Nguyên Đán đã mất, gia đình ông Trần Thúc Quỳnh là con trai thứ ba của ông, thực sự khó khăn. Ông Trần Thuần Đức, là con trai độc nhất của ông Trần Thúc Quỳnh, đã đổi tên là Trần Án, cùng vợ con chạy lên làng Kẻ Gốm, làm nghề ép dầu và khai phá vùng đất hoang để sinh sống. Trần Nguyên Hãn được sinh ra ở đây.
 Hồ Quý Ly giết chết Trần Án và người con trai đầu của ông. Vợ ông là bà Lê Thị Hoàn cùng người con nhỏ là Trần Nguyên Hãn thoát nạn. Trần Nguyên Hãn được học hành chu đáo, là người thông minh và chăm chỉ, có chí lớn, có tài cả văn lẫn võ. Năm 1415 ông đã tổ chức được lực lượng nghĩa quân Rừng Thần chống lại quân Minh, hạ được thành Tam Giang. Nghĩa quân do Trần Nguyên Hãn chỉ huy, đã làm chủ cả vùng Bạch Hạc, Phú Thọ. Năm 1418 Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ông đã đưa nghĩa quân đến tham gia ngay từ buổi ban đầu, được Lê Lợi trao cho chức Tư đồ. Trong Kháng chiến chống quân Minh, ông là người có nhiều chiến công xuất sắc, được Lê Lợi thăng nhiều chức vụ quan trọng: Thái úy rồi Tả Tướng quốc.
Sau khi được phong chức Tả Tướng quốc, Trần Nguyên Hãn xin hưu quan. Lê Lợi đồng ý và cấp cho ông 100 mẫu ruộng, cùng một con ngựa. Ông trở về doanh sở cũ ở Sơn Đông. Mười hai tháng sau, ông bị vu oan là có âm mưu phản lại triều đình. Vua Lê Lợi hạ chiếu, gọi ông về triều đình khảo vấn. Trên đường về Thăng Long, tại bến Đông Hồ, thuyền ra giữa sông, ông đã từ trầm. Sau khi ông mất, Lê Lợi đã hạ chiếu bắt vợ, con ông về Thăng Long quản thúc.
Đến đời cháu Lê Lợi, là vua Lê Nhân Tông, năm Diên Ninh thứ nhất (1454), đã xuống chiếu minh oan cho Trần Nguyên Hãn, tha cho vợ, con và trả lại tài sản. Vua Lê Nhân Tông còn truy phong cho ông là Phúc thần, Khai Quốc nguyên huân và sai lập miếu thờ ông. Trần Nguyên Hãn mất ngày: 26- 10- 1429 (Kỷ Dậu), lúc đó mới 39 tuổi. Mộ ông được an táng ở Rừng Thần, tổng Sơn Bình, nay là huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ vào gia phả của các chi họ ở Sơn Đông, Minh Nông, di tích các đền thờ, ở vùng Kẻ Gốm thì ông có ba bà.
Bà cả: Người làng Cao Phong, xã Văn Quán, nay thuộc xã Sơn Đông, sinh được 1 con trai là Trần Doãn Hữu, tự là Trung Khang. Trước khi ông xuống thuyền về Thăng Long, ông cho bà và con trốn vào Rừng Thần. Sau trở lại Sơn Đông, chi họ hiện nay tại Quan Tử và một bộ phận di cư sang Tuyên Quang, là hậu duệ của tổ Trần Doãn Hữu
Bà hai: Lê Thị Tuyển, sinh được 2 con trai; Trưởng là Trần Trung Khoản; Thứ hai là Trần Đăng Huy, tự là Trần Trung Lương. Khi ông xuống thuyền về Thăng Long, thì bà và 2 con chạy sang làng Kẻ Nú, phủ Tâm Đới, huyện Phù Khang, trấn Sơn Tây. Người Con trai lớn tiếp tục đi tiếp và đổi ra họ Quách (theo gia phả chi họ Trần ở thôn Hồng Hải, Minh Nông, Việt Trì). Trần Đăng Huy thì đổi sang họ Đào, hậu duệ hiện nay là các chi họ ở vùng Bạch Hạc và Minh Nông, Việt Trì.
Bà thứ ba: Có tên gọi là bà Chúa Lôi, ở làng Xuân Lôi, tổng Văn Bình xưa. Bà và 2 con trai theo ông về Thăng Long, khi thuyền chìm thì người ta đã cứu được bà và một người con của ông.

ĐỆ NHỊ THẾ TỔ THIẾT CHẾ TƯỚNG CÔNG TRẦN PHÁP ĐỘ
 (Đời thứ 13 của dòng họ Trần ở Việt Nam)
Thiết chế Lễ Tướng công Trần Pháp Độ, húy Quốc Duy
Pháp độ tướng công Trần Quốc Duy, sinh năm 1424, là con trai của Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn, (theo gia phả viết vào thế kỷ thứ 17 của ông Trần Văn Lập, về dòng họ Trần Phổ Quang). Trần quốc Duy là một trong số đồng tử được cứu tại bến Đông Hồ. Ông cùng với mẹ bị triều đình Lê Lợi đưa về quản thúc tại Thăng Long. Năm 1454, đời vua Lê Nhân Tông (cháu Lê Lợi), niên hiệu Diên Ninh thứ nhất, đã đại xá, minh oan cho Trần Nguyên Hãn và tha cho vợ con ông. Trần Quốc Duy được Lê Nhân Tông vời vào triều làm quan với chức Thiết chế Lễ Tướng công. Năm Canh Dần (1470), đời vua Lê Thánh Tông, hiệu Hồng Đức nguyên niên, Trần Quốc Duy hưu quan, đưa vợ và 3 con trai về Tống Sơn, Thanh Hóa. Ở đây được 6 năm, ông để bà và Trần Đạo Tín ở lại. Ông đưa Trần Công Sủng và Trần Thiện Tính tiếp tục đi vào Nghệ An. Ông chọn chùa Liên Hoa, làng Phì Cam dừng chân, làm ăn sinh sống. Sau thời gian ổn định, ông cho Công Sủng trở lại Thanh Hóa vào ở chùa Sải, thôn Kim Cốc, xã Mai Lân, huyện Tĩnh Gia. Sau ngày Thiện Tính trưởng thành, ông tổ chức khai hoang, lập ấp ra xứ Nương Mao (nay là vùng đất Đông Bắc xã Vĩnh Thành, huyện Nhân Thành và xã Nam Hợp, huyện Yên Thành). Ông cùng con là Trần Thiện Tính về ở làng Hào Kiệt, xứ Tường Lai, ở đây ông làm thông gia với tướng Lê Sơn, hỏi bà Lê Từ Phúc cho ông Trần Thiện Tính.
Khi Trần Quốc Duy qua đời, mộ được an táng ở xứ Tường Lai.
Bà là: Lê Thị Từ Quang. Ông bà sinh được 3 người con trai:
       - Con trưởng là Trần Công Sủng, các chi họ hậu duệ hiện nay ở các xã phía Nam huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa và các xã phía Bắc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ chi trưởng ở Kim Cốc, Mai Lâm, Thanh Hóa. Còn có một chi có tông tích của dòng họ Trần Công Sủng, chi họ thờ tổ Trần Công Mạc, ở thôn Trung Xá, xã Vĩnh Thành.
- Con trai thứ hai là Trần Đạo Tín, các chi họ hậu duệ hiện nay lưu cư ở Tống Sơn (nay là Nga Sơn, Hậu Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Còn một số chi họ mới phát hiện dấu tích dòng Trần Đạo Tín, là các chi ở Cầu Đục, Diễn Trường, Diễn Châu và Nhân Cao, Nhân Thành, Yên Thành.
- Con trai thứ ba là Trần Thiện Tính, tục hiệu là ông, bà Chân Thường, sinh hạ ra trực hệ dòng họ Trần Nguyên Hãn ở Nghệ, Tĩnh
Nhà thờ Trần Quốc Duy đã được chính thức đưa từ Phú Điền, Nhân Thành về Đan Trung, Diễn Thăng đã được 300 năm. Nhà thờ Pháp Độ Tướng công, Trần Quốc Duy ở Đan Trung, đã được nhà nước cấp bằng công nhận là Di tích Lịch sử, Văn hóa và Cách mạng, ngày: 27- 5- 1997. Có nhiều chi họ đã lập nhà thờ Pháp Độ ở Phú Hữu, ở đây có sắc phong: Pháp độ Trung đẳng thần, năm Khải Định thứ 2, năm Đinh Tỵ (1917).
Mộ của tổ Trần Quốc Duy táng ở xứ Tường Lai, Hào Kiệt, nay thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Mộ tổ bà Lê Từ Quang hiện ở Tống Sơn, Thanh Hóa.

 ĐỆ TAM THẾ TỔ NGHỆ TĨNH
 (Đời thứ 14 của dòng họ Trần ở Việt Nam)

Thế tổ khảo Trần Thiện Tính, húy Khương, hiệu là ông Chân Thường.
       Tổ bà là Lê Thị Từ Phúc, hiệu bà Chân Thường.
Hai tổ sinh được 3 con trai: Trần Chân Tịch, Trần Chân Tính, Trần Chân Thiên.
Thời chiến tranh Lê, Mạc (1526- 1533), ông đưa bà và 3 con chạy sang Phúc Điền, tiếp theo ông lại đưa ra ở Bàng Hòa quán, Hoàng Mai tự, ở đây ông phân cư các con. Ông Trần Chân Tịch khoảng 16-17 tuổi về ở chùa Bổn, làng Dàn, xã Đông Tháp (nay là xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu). Ông Trần Chân Thiên, gửi làm con nuôi ông họ Vũ ở thôn Diệu Ốc, xã Giai Lạc (chợ Mõ), nhưng không đổi họ. Ông, Bà cùng người con thứ hai là Trần Chân Tính ở lại Hoàng Mai. Sau lại chuyển đến chùa Mai Nữ, làng Bầu Quán, xã Yên Hậu (nay là xã Diễn Lâm, huyện Diễn Châu) và ông bà Chân Thường mất ở đó.
 Ông Huyền Linh (tức Trần Chân Thiên), là con thứ ba giỏi về địa lý, đã xin anh cả đưa mộ bố mẹ về song táng ở xứ Cồn Chu, trên xứ đồng của họ Trần ở Giai Lạc. Con cháu dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ Tĩnh đã tổ chức xây lăng cho hai tổ tại cồn Chu. Khánh thành ngày: 14- 7- 1999, năm Kỷ Mão. Giỗ ông bà Chân Thường hợp kỵ vào ngày: 14- 3, tại nhà thờ chi Trưởng, dòng Trưởng, ở thôn Đông Tháp, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

 ĐỆ TỨ THẾ TỔ NGHỆ TĨNH
 (Đời thứ 15 của dòng họ Trần ở Việt Nam)

 CHI TRƯỞNG
Tổ Trần Chân Tịch, húy Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm.
       Tổ bà là Hoàng Thị Tâm.
       Ông mất ngày: 23- 8, giỗ hợp kỵ cả ông, bà vào ngày: 27- 3.
Hai tổ sinh được 4 con trai, được mấy con gái không rõ, nhưng cả dòng họ Trần Chân Tịch đều thờ bà cô tổ Trần Quế Hoa Nương. Dòng trưởng Trần Chân Tịch, có trên ba mươi chi họ lớn nhỏ, đã tìm thấy phần lớn ở ven theo trục đường quốc lộ 1A đổ về phía biển từ miền Nam huyện Quỳnh Lưu đến huyện Nghi Lộc.
       - Con trai trưởng của ông bà Trần Chân Tịch, được gia phả ghi là: Tổ Trần Công Ngạn, ở Làng Thọ An. Đến nay đã tìm ra chi họ hậu duệ của tổ Trần Công Ngạn, hiện đang định cư ở xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định và đã đổi từ họ Trần thành họ Cao.
       - Con trai thứ hai của ông bà Trần Chân Tịch là: Trần Phúc Thọ. Ông bà Thọ sinh được: Trần Thủ Hạnh, Trần Đắc. các chi họ này hiện nay ở hầu hết các huyện Diễn Châu, huyện Yên Thành, huyện Nghi Lộc.
- Con trai thứ ba của ông bà Trần Chân tịch là: Trần Chân Tâm. Ông Chân Tâm về ở xã Đông Lũy, nay là xã Diễn Phong, vào khoảng năm 1570, làm nghề dậy học và lấy bà Phạm Từ Khoan, đẻ ra Trần Chính Đạo.
- Con trai thứ tư của ông bà Trần Chân Tịch là: Trần Danh Di. Con trai của ông Trần Danh Di là: Hoàng Giáp Trần Danh Dĩnh đậu Khoa Giáp Thìn (năm 1724). Hậu duệ hiện ở xã Quỳnh Diễn, huyện Quỳnh Lưu.
Mộ tổ Trần Chân Tịch được an táng ở xóm Xuân Tháp, xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ tổ ở chi trưởng thôn Đông Tháp, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.