Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

MỘT THẾ HỆ DÀI BAO NHIÊU NĂM. KHOA HỌC ĐƯA RA CÂU TRẢ LỜI

 Tác giả: Donn Devine, CGSM, FNGS, là một luật sư đã nghỉ hưu, nhà lưu trữ và nhà tư vấn chuyên nghiệp về việc tích hợp phả hệ tài liệu và di truyền. 

Người dịch: Lã Mạnh Hùng. 

(Ảnh minh họa từ Internet)
How long is a generation? Science provides an answer

Một thế hệ dài bao nhiêu? Khoa học đưa ra câu trả lời

To convert generations to years, use a value for the generational interval that is soundly based on the best available evidence.)

Để đổi thế một hệ sang số năm, hãy dùng giá trị cho khoảng thời gian thế hệ dựa trên bằng chứng tốt nhất hiện có.

Từ năm 1973, nhà khảo cổ học Kenneth Weiss đã đặt vấn đề về độ dài của một thế hệ đã được chấp nhận là 20 và 25 năm. Ông nhận thấy rằng 27 năm cho một thế hệ là khoảng thời gian thích hợp hơn dựa trên phân tích tại những khu chôn cất thời tiền sử, nhưng thừa nhận rằng kết luận của ông có thể bị ảnh hưởng nếu người làng đã chết xa quê hương và được chôn cất ở nơi khác.[1] 

Việc sử dụng 20 hoặc 25 năm là độ dài của một thế hệ như “đã được chấp nhận” làm hệ số chuyển đổi khi tính toán năm sinh cho tổ tiên chung về mặt nhân chủng học cách đây 50 thế hệ trở lên có thể đưa đến việc rút ngắn khoảng thời gian một cách đáng kể. Tuy nhiên, những giá trị không có căn cứ vẫn được sử dụng, ngay cả trong các nghiên cứu khoa học đương thời.[2] 

Nancy Howell, một nhà xã hội học, đã xác định khoảng cách trung bình giữa các thế hệ những người hiện tại của !Kung trong nghiên cứu đầu tiên của ba nghiên cứu gần đây hơn về độ dài thế hệ. Đây là những người hiện đại sinh sống bằng cách săn bắn hái lượm ở Botswana và Namibia, lối sống của họ có thể giống với lối sống của tất cả tổ tiên tiền nông nghiệp của chúng ta trong thời quá khứ xa xôi. Độ tuổi trung bình của các bà mẹ khi sinh đứa con đầu lòng là 20, và khi sinh đứa con cuối cùng là 31, như thế trung bình 25,5 năm là độ dài trung bình cho mỗi thế hệ nữ -- vượt xa con số 20 tuổi thường được quy cho những nền văn hóa nguyên thủy. Chồng lớn hơn vợ từ sáu đến 13 tuổi, dẫn đến tuổi độ dài của một thế hệ nam là từ 31 đến 38 tuổi (hay trung bình là 34,5 năm).[3] 

Nghiên cứu thứ hai, do hai nhà di truyền học dân số Marc Tremblay và Hélène Vézina thực hiện, đã sử dụng 100 phả hệ Quebec (Canada) tăng dần, của 50 cặp vợ chồng được chọn ngẫu nhiên, kết hôn từ năm 1899 đến năm 1974. Thông tin bắt nguồn từ BALSAC, một cơ sở dữ liệu nghiên cứu vi tính liên trường đại học tại Đại học Quebec ở Chicoutimi, và được lấy từ những cơ quan ghi danh (đăng ký) kết hôn và rửa tội của những giáo xứ ở Quebec từ những năm 1600. Mẫu của họ gồm 10,538 thế hệ, với độ cách nhau trung bình là 9 thế hệ nhưng có thể đi lùi tới 12 hoặc 13 thế hệ. Họ dùng thời gian giữa cuộc kết hôn của cha mẹ với cuộc kết hôn của con cái họ làm khoảng cách, trung bình là 31,7 năm.[4] 

Họ cũng tính toán khoảng cách thế hệ cha-con trai và mẹ-con gái khác biệt so với các dòng có ít nhất 5 thế hệ toàn nam hoặc toàn nữ liên tiếp. Thế hệ nam có độ dài trung bình là 35,0 năm, trong khi thế hệ nữ có độ dài trung bình là 28,7 tuổi. 

Trong nghiên cuối cùng (thứ 3), nhà nhân chủng học sinh học Agnar Helagason và những đồng nghiệp đã sử dụng cơ sở dữ liệu di truyền DeCODE của Iceland, nơi có phả hệ của hầu hết người Iceland  hai thế kỷ về trước và lâu đời hơn đối với nhiều gia đình. Họ tính toán những khoảng thời gian thế hệ phụ hệ và mẫu hệ riêng biệt trong các khoảng thời gian khác nhau để xem liệu có sự khác biệt hay không. Những giá trị ban đầu chỉ chứa các dòng tổ tiên từ năm 1848 đến năm 1892, trải dài từ ba đến năm thế hệ. Sau đó, những nhà nghiên cứu tính toán khoảng cách đối với tổ tiên sinh từ năm 1692 đến năm 1742, kéo dài từ bảy đến chín thế hệ. Kết quả tìm được cho thấy rằng các thế hệ gần đây nhất có độ dài ngắn hơn một chút so với những thế hệ xa hơn, trái ngược với hiểu biết phổ biến.[5] 

Khoảng cách giữa các dòng con gái là 28,12 năm đối với các thế hệ gần đây nhất và tổng thể là 28,72 năm. Thế hệ nam khác nhau 31,13 năm đối với các thế hệ gần đây nhất và 31,93 năm nói chung. Dựa trên những kết quả tìm được của họ ở Iceland và nghiên cứu ở Quebec, họ cho rằng khoảng cách của một thế hệ nữ là 30 năm và khoảng thời gian giữa hai thế hệ nam là 35 năm. 

Hiện tại, do các kết quả khác nhau không chính xác và nhu cầu ước tính của người viết để dễ dàng tính toán, tôi đang sử dụng ba thế hệ mỗi thế kỷ (mỗi thế hệ 33 năm) cho các dòng nam và ba thế hệ rưỡi mỗi thế kỷ (29 năm) đối với dòng nữ khi chuyển đổi một thế hệ sang số năm. 

Để kiểm soát những giá trị đó, dựa trên dữ liệu mở rộng và phân tích toán học nghiêm ngặt nhưng đã được làm tròn để dễ sử dụng, tôi quyết định so sánh các khoảng thời gian thế hệ từ phạm vi toàn nam hoặc toàn nữ trong dòng họ của tôi từ năm 1700 đến năm  2000, và rất ngạc nhiên khi thấy kết quả đi sát với nhau. Độ dài trung bình là 34 năm cho mỗi thế hệ đối với tổng số 21 thế hệ dòng nam của 5 chi. Đô dài trung bình của 19 thế hệ dòng nữ của 4 chi là 29 tuổi. 

Do bản chất của khoa học vật lý và sinh học, những hiểu biết hiện tại liên tục thay đổi khi có thêm dữ liệu và cách giải thích nó trở nên chắc chắn hơn -- giống như các phán đoán phả hệ về mối quan hệ có thể thay đổi khi có bằng chứng mới được tiết lộ. Trong khi đó, để chuyển đổi thế hệ sang năm và ngày hợp lý, hãy áp dụng giá trị khoảng thế hệ dựa trên dữ liệu tốt nhất hiện có. 

Nguồn: © Copyright 2005 Ancestry.com. Reproduced by permission. This article was originally published in Ancestry Magazine, Sep-Oct 2005, Volume 23, Number 4, pp51-53. 

Tài liệu tham khảo: 

[1] K. M. Weiss, “Demographic Models for Anthropology,” American Antiquity 38 No, 2 (April 1979): 1-39.

[2] Max Ingman et al., "Mitochondrial Genome Variation and the Origin of Modern Humans," Nature 408 (2000): 708-713, 8,575, used 20-year generations to place "mitochondrial Eve" 171,500 +/- 50,000 years before present, a probability range broad enough to cover the underestimation; Russell. Thomson et al., "Recent Common Ancestry of Human Y Chromosomes," Proceedings of the National Academy of Science USA 97 (20 June 2000): 7360-7365, used 25-year generations (although noting Weiss's 27-year estimate) to place the most recent common male-line ancestor of all living men about 50,000 years before the present.

[3]  Nancy Howell, The Demography of the Dobe !Kung (1979; second edition New York: Walter de Gruyter, 2000).

[4]  Nancy Howell, The Demography of the Dobe !Kung (1979; second edition New York: Walter de Gruyter, 2000).

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét