Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2020

BIÊN DỊCH GIA PHẢ HÁN NÔM VIỆT

BIÊN DỊCH HÁN NÔM VIỆT
CAO TRẦN TỘC THẾ THỨ PHẢ LỤC TỰ
LỜI MỞ ĐẦU

NGUYÊN - THỦY - BẢN - MỘC
Dòng họ Cao Trần tại xã Giao Tiến huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định ngày nay, theo các tài liệu sử phả truyền lại, có nguồn gốc từ họ Trần. Phúc đức và may mắn hơn nữa dòng họ còn lưu truyền và giữ lại được bộ Gia phả bằng chữ Hán, ghi lại thông tin từ đời thứ Nhất đến đời thứ 9.

Bộ gia phả quý của dòng họ hiện còn lưu giữ, được nhiều thế hệ Tổ tiên ông cha cung cấp thông tin và chắp bút qua nhiều thế hệ và là công việc của cả dòng họ trong rất nhiều năm. Thái tổ Vô Ý từ Bến đò Mía xã Thịnh, huyện Mỹ Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa vì binh biến Thái tổ đã đưa Thái tôn về vùng đất mới làng Hòe Nha, phủ Xuân Trường trấn Sơn Nam hạ, nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Thái tổ đã thay tên đổi họ sống cuộc sống dân dã để tính kế sâu rễ bền gốc. Các thế hệ từ đời thứ 3 đã được cha ông cho theo học chữ nghĩa và ra làm việc làng, việc nước. Thái tôn đã đóng góp tiền của và quy Phật hậu ở cả hai chùa Hưng Long và Hưng An trong làng và đã được tạc tượng thờ cúng cho đến ngày nay.
Bộ gia phả chữ Hán trước đây gồm nhiều tập, viết qua nhiều đời. Những dấu mốc lớn còn để lại minh chứng bao gồm các cụ:
-       Cụ Cao Đăng Phong (1800-1875) đời thứ 7. Giáp phái cành trưởng làm chủ biên viết gia phả từ đời thứ Nhất đến đời thứ 6.
-       Cụ Cao Vĩnh Phúc đời thứ 9. Giáp phái cành trưởng làm chủ biên viết gia phả từ đời thứ 7 đến đời thứ 8.
-       Ông Cao Bá Lô (1902-1980) đời thứ 11. Ất phái cành trưởng. Ông làm Giám họ trong những năm từ 1960 -1980. Trong điều kiện không thuận lợi về nhiều mặt, ông đã kì công sao chép các bản Gia phả chữ Hán đời trước truyền lại và viết tiếp Gia phả đời thứ 9. Chữ của ông rất đẹp, nhiều chữ khó chữ Nôm đã được ông tỷ mỉ ghi chép rất chi tiết và mĩ quan khoa học. Đây chính là phiên bản Gia phả chữ Hán sau cùng hiện nay dòng họ đang lưu truyền và là nguồn trích dẫn chính cho các bộ Gia phả xuất bản sau này.
Cho đến nay dòng họ cũng đã tiếp tục xuất bản thêm 2 phiên bản Gia phả mới bằng chữ Quốc ngữ vào các năm 1997 và 2018, cũng như tiếp tục bổ sung và hiệu chỉnh các thông tin chưa chính xác cho các phiên bản sau này. Số người đọc được chữ Hán cổ trong dòng họ hầu như đã khuất. Số người học Trung văn ở độ tuổi trung bình và trẻ cũng không nhiều. Đây cũng chính là điều làm cho các Biên tập viên Gia phả dòng họ  gặp đôi chút trở ngại. Người biên dịch (NBD) đã chủ động tự học Hán Nôm nhờ các tài liệu, từ điển, công cụ, máy tính và các Chuyên gia Hán Nôm hỗ trợ, cũng xin góp một chút kiến thức nhỏ nhoi trong việc tra cứu chữ nghĩa của Tổ tiên, ông cha để lại. Do trình độ, kinh nghiệm của NBD chưa sâu nên không thể tránh được việc đọc hiểu chưa đúng chữ nghĩa trong Gia phả Hán Nôm. Kính mong Hương linh tiên tổ đại xá và phù hộ cho con cháu, các thế hệ thuộc dòng họ Cao Trần và người đọc cảm thông động viên chia sẻ. NBD cũng cố công làm việc một cách cẩn trong thời gian gần 2 năm liên tục, để tránh được tối đa các sơ xuất của việc chuyển ngữ Hán Nôm sang dạng âm Hán Nôm Việt ghi bằng chữ Quốc ngữ.
Trong quá trình biên dịch, NBD đã tự lưu tâm một số điều sau đây:
-       Một số từ cổ nhất là tên húy của các cụ theo nghĩa Nôm hoặc âm địa phương hoặc theo cách gọi chệch (kiêng tên thật) mà trong từ điển chưa có chữ quy ước tương ứng. Ông cha ta đã dùng chữ cận âm tương ứng thay thế.
-       Một vài từ còn thiếu so với văn phong của Gia phả. NBD xin bổ sung cho hoàn thiện hơn.
-       Một vài lỗi nhỏ khi biên soạn như phụ nữ viết thành nam hoặc ngược lại. Số lượng ban đầu là 2 người, sau đó lại kê ra 3 người…NBD xin sửa lại cho thích hợp mà không làm sai lệch bản chất của câu chữ.
-       Trong các trường hợp NBD còn phân vân, xin được chú thích sau mỗi trang.
-       Rất tiếc NBD không còn cơ hội được gặp gỡ các cụ trong dòng họ, những người hiểu sâu về sử phả để học chữ nghĩa, kinh nghiệm khi biên dịch nên khó có thể nói việc biên dịch này được hoàn chỉnh trọn vẹn. Nhân dịp biên dịch cuốn Gia phả này NBD cũng ghi lại và chú âm Hán Việt 5 bộ câu đối chữ Hán hiện đang được bảo tồn tại Nhà lưu niệm của dòng họ, để các thế hệ trong và ngoài dòng họ hiểu được Văn hóa tâm linh của Tổ tiên ta.
    
Dù kết quả đạt được đến mức độ nào đi nữa, NBD cũng coi đây là việc làm thiết thực. Một nén tâm nhang thắp trên bàn thờ kính dâng Hương linh Tiên tổ. NBD cũng mong trong dòng họ cho biết ý kiến phản hồi để dòng họ Cao Trần mãi mãi lưu truyền được Gia phả cho muôn đời sau.

P/S: Bản biên dịch Gia phả chữ Hán đang  được chỉnh sửa. Khi hoàn thành sẽ có đường link để Quý vị tham khảo.
                            
 Vũng Tàu, tháng 3 năm 2020
     NBD Cao Xuân Thiện
Đời thứ 13 Ất phái cành Trưởng.

高族世次譜籙
天錫姓以立宗本系所自出而起家稱鼻祖繼緒當思不忘我.高族發迹自陳家肇基禋于衙渚前作後述肯溝肯堂.
仰深啟佑之人更切作求之念爰是集為譜籙永示宗祧庶乎祀事孔明而世次可紀者也
CAO TỘC THẾ THỨ PHẢ LỤC TỰ.
Thiên tích tính dĩ lập tông bản hệ sở tự xuất nhi khởi gia xưng tỵ tổ kế tự đương tư bất vô ngã. Cao tộc phát tích tự Trần gia triệu cơ yên vu Nha chử, tiền tác hậu thuật khẳng câu khẳng đường.
Ngưỡng thâm khải hữu chi nhân canh thiết tác cầu chi niệm viên thị tập vi phả lục vĩnh kỳ tông dao thứ hồ tự sự khổng minh nhi thế thứ khả kỷ giả dã.
陳貴公 字無心 
陳一 郎字福善 
陳二 郎字福信 
陳三郎字真空 
陳桂花娘 . 
以上諸真靈墳墓原在舊貫.無意公遷于茲地輯編家譜將陳姓裔號書于世譜之上使子孫知世系之所自出也.
Trần quý công Tự Vô Tâm
Trần nhất lang tự Phúc Thiện
Trần nhị lang tự Phúc Tín
Trần tam lang tự Chân Không
Trần Quế Hoa nương.
Dĩ thượng chư chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán. Vô Ý công thiên vu tư địa tập biên gia phả tương Trần tính duệ hiệu thư vu thế phả chi thượng sứ tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã.
第一代世
創業開基太祖考高貴公字無意.正月十八日忌.墓在垌徵二度次二.
公諱罗翁芃 原前在清花省雷陽縣盛美社俗號罗渡𣖙
始遷于茲改姓爲高蓋字公始也.
太祖妣黃氏一娘號慈信九.月二十九日忌墓在舊貫.
妣生得三男長高一郎字真性集爵平論公早沒無後墓在舊貫八月十九日忌.次曰公弼,三曰季郎字孝良早沒無後墓在舊貫八月二十三.
  :高一娘號慈清俗罗婆度,七月初 三日忌
二娘號慈在,九月十五日忌
三娘號慈明俗罗婆壽,八月二十四日忌.
四高貴娘仙花娘俗罗婆朝友,二月初四日忌.
ĐỆ NHẤT ĐẠI THẾ HỆ.
Sáng nghiệp khai cơ Thái tổ khảo Cao quý công tự Vô ý. Chính nguyệt thập bát nhật kỵ, mộ tại Đồng Trưng nhị đạc thứ nhị.
Công húy là ông Bong. Nguyên tiền tại Thanh Hóa tỉnh Lôi Dương huyện Thịnh Mỹ xã, tục hiệu là Độ Mía. Thủy thiên vu tư cải tính vi Cao cái tự công thủy dã.
Thái tổ tỷ Hoàng Thị nhất nương hiệu Từ Tín. Cửu nguyệt nhị thập cửu nhật kỵ, mộ tại cựu quán.
Tỷ sinh đắc tam nam, trưởng Cao nhất làng tự Chân Tính tập tước Bình luận công, tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán. Bát nguyệt thập cửu nhật kỵ. Thứ viết Công Bật, tam viết quý làng tự Hiếu Lương, tảo một, vô hậu một tại cựu quán. Bát nguyệt nhị thập tam nhật kỵ.
Tứ nữ: Cao nhất nương hiệu Từ Thanh tục là bà Độ, thất nguyệt sơ tam nhật kỵ. Nhị nương hiệu Từ Tại, cửu nguyệt thập ngũ nhật kỵ. Tam nương hiệu Từ Minh tục là bà Thọ. Bát nguyệt nhị thập tứ nhật kỵ. Tứ Cao quý nương Tiên Hoa Nương tục là bà Triều Hữu. Nhị nguyệt sơ tứ nhật kỵ.
第二   
甲派祖考高貴公字功弼謚曰福厚.十月初四日忌,墓在𫇰上處,一度次五.公乃無意公之次子也.諱根後改功弼集爵預義公,娶三房.於黎朝裕宗永盛九年癸巳皈正村佛后.至永盛十四年戊戌皈本村后佛.
按吾族自無意公將公于新邑一父一子.此時人丁尚存稀少.至于公三房廣嗣疌有瓜瓞綿生之兆莧此則公誠起家之祖也
ĐỆ NHỊ ĐẠI THẾ HỆ. 
Giáp phái tổ khảo Cao quý công tự Công Bật thụy viết Phúc Hậu. Thập nguyệt sơ tứ nhật kỵ, mộ tại cựu thượng xứ, nhất đạc thứ ngũ.
Công nãi Vô Ý công chi thứ tử dã. Húy Căn hậu cải Công Bật tập tước Dự nghĩa công, thú tam phòng.
Ư Lê triều Dụ Tông Vĩnh Thịnh cửu niên Quý Tỵ quy Chính thôn Phật hậu. Chí Vĩnh Thịnh thập tứ niên Mậu Tuất quy bản thôn hậu Phật.
Án ngô tộc tự Vô Ý công Tướng công vu tư tân ấp nhất phụ nhất tử. Thử thời nhân đinh thượng tồn hy thiểu. Chí vu công tam phòng quảng tự tiệp hữu qua điệt miên sinh chi triệu hiện thử tắc công thành khởi gia chi tổ dã.
妣尹三娘  慈忍.墓在土宅六度次七.十一月初六日忌.
Tỷ Doãn tam nương hiệu Từ Nhân. Mộ tại Thổ Trạch lục đạc thứ thất. Thập nhất nguyệt sơ lục nhật kỵ.  
妣生二男長曰翁耀,字忠直未有妻子早沒,七月初五日忌.次諱罗翁森後改名功盖.一女高氏行一 號慈幸俗罗婆生.六月十六日忌.
Tỷ sinh nhị nam, trưởng viết ông Diệu, tự Trung Trực vị hữu thê tử tảo một, thất nguyệt sơ ngũ nhật kỵ. Thứ húy là ông Sâm, hậu cải danh Công Cái. Nhất nữ Cao Thị hàng nhất hiệu Từ Hạnh tục là bà Sinh. Lục nguyệt thập lục nhật kỵ.
次妣阮氏行號慈緣.月十五日忌. 墓塟未詳.
Thứ tỷ Nguyễn Thị hàng hiệu Từ Duyên. Thất nguyệt thập ngũ nhật kỵ. Mộ táng vị tường.
 生二男. 諱祿,後改名選. 諱利,後改功吏俗號罗翁輸.
Tỷ sinh nhị nam. Trưởng húy Lộc, hậu cải danh Tuyển. Nhị húy Lợi, hậu cải Công Lại tục hiệu là ông Thâu.
 女高氏榴號慈嚴,罗婆簿僚.四月十一日忌.
Nhất nữ Cao Thị Lựu hiệu Từ Nghiêm, tục là bà Bạ Liêu. Tứ nguyệt thập nhất nhật kỵ.
三妣阮氏行號慈賢 月二 十三日忌. 墓未
Tam tỷ Nguyễn Thị hàng hiệu Từ Hiền. Bát nguyệt nhị thập tam nhật kỵ. Mộ vị tường.
 生二 .一諱後改名遂. 
Tỷ sinh nhị nam. Nhất húy Nhĩ[1] hậu cải danh Toại. Nhị…
一女高氏號妙姿俗罗號婆往.正月十五日忌.
Nhất nữ Cao Thị hiệu Diệu Tư tục hiệu là bà Vãng. Chính nguyệt thập ngũ nhật kỵ.







[1] : Các bản dịch trước ghi là Nhí.

1 nhận xét:

  1. Thật vinh hạnh được xem bản dịch của dòng họ có người viết được làphong cách nho giáo

    Trả lờiXóa