Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2020

XUNG QUANH DANH XƯNG “KHU DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA PHƯƠNG LA”


Năm 2019, Ban chấp hành Họ Trần (BCHHT) Việt Nam phổ biến ba tập văn bản gồm một số bài viết của BCH và các tài liệu khác nói về “Ông Đào Trần Quang Cát và Hội đồng Họ Trần Việt Nam”, là không khách quan bởi trái với Quốc sử, đạo lý và sự xác nhận của các văn bản Nhà nước hiện hành.
Văn bản số 1854/UBND-TCD ngày 13/5/2019 của UBND tỉnh Thái Bình trả lời đơn kiến nghị và phản ánh của Hội đồng Họ Trần Việt Nam, tại điểm 1, về việc cho phép tu sửa, tôn tạo “Đền nhà ông” viết: “Đền nhà ông” là cơ sở thờ tự của dòng họ Trần xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, không phải là di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng …. Điểm 3, về việc sử dụng đất để xây dựng “Đền nhà ông” tại thôn Phương La, xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, theo báo cáo số 92/BC-UBND ngày 22/4/2019 của UBND huyện Hưng Hà: “Trong quá trình thực hiện đo đạc bản đồ năm 1986 và 1992, “Đền nhà ông” chỉ còn phần bệ móng, nên không thể hiện trên hồ sơ quản lý. Đến năm 2007, đo đạc hiện trạng và lập bản đồ địa chính xã Thái Phương, “Đền nhà ông” được thể hiện tại thửa đất 326, tờ bàn đồ số 8, tỷ lệ 1/1.000, diện tích 720,4 m2, loại đất tín ngưỡng”.

Theo đó, “Đền nhà ông”, là nơi thờ tự của dòng họ Trần xã Thái Phương tọa lạc tại thôn Phương La, có diện tích đất tín ngưỡng là 720,4 m2 tại thời điểm năm 2007, và không phải là khu di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Thế nhưng tại Hội thảo khoa học ngày 9/1/2007, nhân 750 năm chiến thắng quân Nguyên Mông xâm lược và Kỷ niệm 814 năm ngày sinh của Thái sư Trần Thủ Độ, do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình tổ chức với tiêu đề: “Hoằng Nghị đại vương và việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hóa Phương La”.
Với duy nhất là phần bệ móng của miếu thờ cũ mà gọi là Khu di tích Lịch sử - Văn hóa Phương La ? và Hoằng Nghị Đại Vương là ai ?
Theo tư liệu khảo sát vào năm 2006 của PGS.TS Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cho biết, từ đường họ Trần làng Phương La gồm một ngôi nhà tổ và một căn nhà lưu niệm của dòng họ. Bài vị nhà tổ ghi: “Trần Hoàng () Nghị đại vương Thượng đẳng phúc thần linh vị. Mệnh phụ phu nhân Trần môn linh vị Tiên Dung Hoa Nương hiệu Hoàng () Đức Mây, Tô Thị Hoa Nương, Quế Thị Hoa Nương”. Và ông khẳng định: “đến thời điểm chúng tôi khảo sát thì ở từ đường họ Trần làng Phương La có bài vị thờ Trần Hoàng Nghị đại vương cùng phu nhân, nhưng không có tư liệu nào liên quan đến Trần Thủ Độ”(chữ hoàng () và chữ hoằng () , về tự hình rất khác biệt).
Tại hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 800 năm ngày sinh danh nhân Trần Thủ Độ (1194-1994) do Viện Sử học Việt Nam và UBND tỉnh Thái Bình tổ chức, cụ Dương Quảng Châu (cố Cộng tác viên Ban nghiên cứu lịch sử tỉnh Thái Bình) là người đưa ra giả thuyết thân phụ của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị, và Trần Hoằng Nghị là người đầu tiên khai khẩn đất làng Ứng Mão (nay là thôn Phương La). Cụ Dương Quảng Châu sau đó còn có một số bài viết để chứng minh giả thuyết trên thành sự thật lịch sử, nhưng tất cả đều là duy ý chí.
Từ bài viết của cụ Dương Quảng Châu, được cụ Trần Xuân Sinh đưa vào sách Thuyết Trần – Sử nhà Trần, ấn hành vào năm 2003. Xét về nghĩa thì Thuyết Trần không đồng nghĩa với Sử nhà Trần, nếu cụm từ “Sử nhà Trần” nguyên của tác giả Xuân Sinh thì lỗi ấy thuộc về Nhà xuất bản. Ấy vậy, mà tại hội thảo khoa học tháng 1/2007 tại Hà Nội, do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Bình tổ chức, PGS.TS Nguyễn Minh Tường đã sử dụng các tư liệu do cụ Dương Quảng Châu công bố như là một bằng chứng không thể thay thế, để kết luận rằng thân phụ của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị và ghi vào chính sử “Lịch sử phổ thông Việt Nam” tập 3 do ông làm chủ biên: “Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) ở khu Bến Trấn, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng (nay thuộc xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình)” và “Thân phụ của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị”.
PGS.TS Phạm Quốc Sử - Đại học Thủ đô Hà Nội, nhận xét hết sức chân thực và khách quan về phát kiến của cụ Dương Quảng Châu: “Là người tiếp xúc với Dương Quảng Châu khi ông còn sống trong một số lần sinh hoạt ở Hội Khoa học lịch sử tỉnh Thái Bình … ông là một cụ già có nét lam lũ nhưng ham mê nghiên cứu lịch sử khiến tôi không tin những bài viết của ông nhằm vụ lợi, mà do ông đã làm việc thiếu thận trọng, thiếu một nghiên cứu khoa học, thiếu những kỹ năng cần thiết của một người làm công tác điền dã, một người làm nghiên cứu chuyên nghiệp …… Dương Quảng Châu với những công bố về Trần Hoằng Nghị hay Hoằng Nghị đại vương là không đáng tin cậy, là điều đáng tiếc chứ không đáng bị chỉ trích nặng nề. Nhưng những người sử dụng công bố thiếu căn cứ của ông thì đáng trách, đáng chỉ trích. Trước hết, đó là tác giả Nguyễn Minh Tường và một số người khác đã mặc nhiên công nhận Hoằng Nghị đại vương là cha của Trần Thủ Độ, đã biến những thông tin thiếu căn cứ khoa học thành kiến thức lịch sử trong các công bố rộng rãi. Tiếp đến là chính quyền tỉnh Thái Bình, là các cơ quan chuyên môn từ Viện Sử học đến Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thái Bình đã để cho những công bố không có căn cứ khoa học về thân phụ Trần Thủ Độ được mặc nhiên công nhận như một sự thật lịch sử”.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) là có căn cứ do Phan Phu Tiên – Quốc sử viện đời Lê ghi chép nơi chính sử: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264). Mùa xuân tháng giêng Thái sư Trần Thủ Độ chết (thọ 71 tuổi), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương”. Nhưng nói Trần Thủ Độ sinh ra ở khu Bến Trấn nay thuộc xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là việc làm rất xa lạ. Bởi trong 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông dưới triều Trần, ĐVSKTT ghi chép không ít địa danh lịch sử như: bến Chương Dương; bến Vạn Kiếp; Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, trên cầu Long Biên); cửa Hàm Tử; cửa sông Bạch Đằng; cừa biển Đại Bàng; Tam Tri Nguyên (sông Ba Chẽ); Sông Nam Triệu; sông Lô (sông Hồng); vụng Đa Mỗ, các làng Ba Điểm, Bàng Hà … nhưng không thấy địa danh Bến Trấn, và đọc khắp bộ ĐVSKTT, bộ Đại Nam thực lục ghi chép cả hơn ngàn năm lịch sử của nước Đại Việt, cũng không thấy địa danh này và địa danh làng Ứng Mão (Mẹo) thuộc xã Thái Phương ngày nay.
Sách “Đền thờ Tổ Họ Trần Việt Nam” do 2 ông Trần Văn Sáu và Trần Đại Thanh viết: “Cụ Hoằng Nghị người cao lớn, sức vóc cường tráng, văn võ song toàn, tài cao đức trọng. Khoảng năm (1138-1175) cụ chuyển lên Bến Trấn (nay thuộc thôn Phương La, xã Thái Phương, huyện Hưng Hà). Cụ có 4 phu nhân … Cụ tổ chức dạy võ, dạy chữ, dạy văn cho dân, tham gia chính quyền, làm quan giúp dân, giúp nước. Khi đã hội tụ đủ các yếu tố cần thiết, Cụ quyết định thành lập đội Quân dân binh hùng mạnh lấy tên quân Tinh Cương, liên kết với khu Bến Trấn, khu Hải Ấp của người anh là Trần Lý …”. Về gia phả học không thấy 2 ông trích dẫn gia phả dòng Trần đền Nhà Ông của thôn Phương La, mà viết: “Căn cứ cổ phả họ Trần Đại Việt do thống tôn đời thứ 27 Trần Đình Nhân còn lưu giữ được, thì Đức Hoằng Nghị Đại Vương – Thượng đẳng phúc thần có húy danh là Trần Thủ Huy, chính là thân phụ Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Theo thông tục kiêng gọi húy danh mà chỉ gọi danh thần trong sắc vua phong của ngài là Hoằng Nghị Đại Vương”. Rất khó tin những ghi chép này bởi không có bản photo Hán tự cổ phả họ Trần Đại Việt đính kèm để minh chứng.
Cũng theo báo cáo của BCHHT Việt Nam, tại Hội thảo khoa học “Thái Bình với sự nghiệp thời Trần”, do UBND tỉnh Thái Bình – Ban Thường vụ tỉnh ủy phối hợp với Viện Sử học tổ chức vào tháng 4 năm 1986, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ân nêu: “Trần Thủ Độ sinh năm 1194 – Giáp Dần, ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng”. Đến năm 2001, sách “Các triều đại Việt Nam” của 2 tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng chép: “Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần 1194, ở làng Lưu Xá, Hưng Nhân tỉnh Thái Bình”, có một số chữ khác nhau, nhưng về nội dung của hai trích dẫn trên là một và đều không ổn. Bời ĐVSKTT duy nhất một lần chép về địa danh lịch sử Lưu Xá: “Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209), Hoàng thái tử (Sảm) đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ… Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý tước Minh Tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ”. Xác nhận Hoàng tử Sảm triều Lý gặp Trần Thị Dung tại thôn Lưu Gia, Hải Ấp, và Tô Trung Từ cậu ruột của bà được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ đồng thời với tước Minh Tự của cha. Điều này có thể hiểu Lưu Gia – Hải Ấp là quê ngoại của bà Dung. Còn quê nội là hương Tức Mặc nơi dựng Tiên miếu nhà Trần. Mở đầu Kỷ nhà Trần – Trần Thái Tông viết: Trước kia tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là (Trần) Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra (Trần) Hấp, (Trần) Hấp sinh ra (Trần) Lý, (Trần) Lý sinh ra (Trần) Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ 2 của (Trần) Thừa, mẹ họ Lê … Kiến Trung năm thứ 7 (1231), mùa thu tháng 8, vua (Thái Tông) ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưởng ở Tiên miếu, thết yến và ban lụa cho bô lão trong hương theo thứ bậc khác nhau. Đến Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 8 (1239), vua sai Phùng Tá Chu về hương Tức Mặc xây dựng nhà cửa, cung điện …. An Nam chí lược của Lê Tắc viết: “Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đặt thêm 3 phủ nữa là: Long Hưng, Thiên Trường, Trường An”, và giải thích: “Long Hưng phủ tên cũ là Đa Cương hương, tổ tiên họ Trần lúc còn hàn vi đi qua một cái cầu khe, khi qua rồi, ngoảnh lại không thấy cầu nữa. Chẳng bao lâu họ Trần được nước, người ta gọi khe ấy là Long Khê, nên đổi tên Đa Cương làm Long Hưng. Thiên Trường phủ tên cũ là Tức Mặc hương, nơi phát tích họ Trần. Đến khi họ Trần được nước, xây một hành cung tại đó, mỗi năm đến 1 lần, để tỏ ra là không bỏ quên chỗ phát tích của ông bà, rồi đổi tên làm Thiên Trường phủ, chỗ ấy có nước thủy triều chảy quanh thành, 2 bên bờ mọc đầy cây hoa, khí thơm ngát người, hoa thuyền qua lại giống như cảnh tiên vậy”. Bia ký đền Trần tại hương Tức Mặc xác nhận: “Đền Trần tại Thiên Trường được xây dựng lại vào năm 1695 trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần bị quân Minh phá hủy hồi thế kỷ 15”. Và phong cảnh đẹp nơi hành cung phủ Thiên Trường, Trần Thánh Tông cũng đã từng gửi gắm trong ý thơ:
Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Thập nhất tiên châu thử nhất châu
Tiên miếu Nhà Trần là nơi phụng thờ Tổ tiên hoàng tộc nhà Trần tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường rất rõ là vậy. Thế nhưng tại Báo cáo của BCHHT trang 11, viết: “Gia phả họ Trần ở Tức Mặc – Hà Nam Ninh hiện còn lưu giữ bài thơ nguyên văn chữ Hán: “Đáo Tổ Trần Miếu” (Thăm đền thờ Tổ Nhà Trần) của cử nhân Bố chánh tỉnh Cao Bằng Trần Đôn Phục (1826-1887), đến nay mới vỡ lẽ, đó là cụ tổ Trần Hoằng Nghị, thân phụ của Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, … tại xã Hương La” (không thấy chép bài thơ ấy).
“Đền nhà ông” thờ: “Trần Hoàng Nghị đại vương Thượng đẳng phúc thần linh vị. Mệnh phụ phu nhân Trần môn linh vị Tiên Dung Hoa Nương hiệu Hoàng Đức Mây, Tô Thị Hoa Nương, Quế Thị Hoa Nương”, là tổ của tộc Trần thôn Phương La, BCHHT Việt Nam nhận làm Tô của Họ Trần Việt Nam cùng 3 phu nhân được thờ chánh vị, nhưng đều không rõ hành trạng. Đền có phụ thờ Tổ tiên và các hoàng đế nhà Trần với những bức tượng chỉ bằng 1/10 tượng chánh vị. Do đó, cụ Đào Trần Quang Cát - Hội đồng Họ Trần Việt Nam kiến nghị cơ quan chức năng Nhà nước xóa bỏ danh xưng “Đền thờ Tổ Họ Trần Việt Nam”, nơi tầng thượng của “Đền nhà ông” là đúng. Trước kia, Việt Nam ta trăm họ cùng chung một tổ, đó là Quốc Tổ Hùng Vương, nay họ Trần ta hay một họ nào đó muốn tìm một vị Tổ họ riêng, quả là không đơn giản, bởi chí ít vị tổ đó phải có danh phận rõ ràng trong lịch sử và có thế đại cao nhất trong họ tộc. Ngài Trần Hoàng Nghị hay Hoằng Nghị Đại Vương là nhân thần hay thiên thần và do triều đại nào sắc phong chưa rõ, sao vội tôn làm tổ họ Trần Việt Nam, lại đứng trên tiên tổ và các hoàng đế nhà Trần từng làm nên chiến công sáng chói trong lịch sử 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Tộc phả dòng Trần thôn Phương La truyền hạ đến nay là bao nhiêu đời, chưa thấy ai đề cập ? Nếu tộc phả ấy được công khai với các nhà Gia phả học, thì hành trạng của ngài Hoàng Nghị sẽ được làm sáng tỏ và giải thích vì sao Ngài có đến 3 phu nhân, còn các đời tiên tổ của vua Trần Thái Tông chỉ có một phu nhân và về sau đều được truy tôn, gia tôn là hoàng đế, hoàng hậu.
Văn bản số 1854/UBND-TCD ngày 13/5/2019 của UBND tỉnh Thái Bình còn cho biết diện tích đất liền kề “Đền nhà ông” là 41.106,2 m2, được UBND huyện Hưng Hà đồng ý cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và cho ông Trần Văn Sen thuê đất, thời hạn 49 năm để thực hiện dự án “Đầu tư xây dựng vườn sinh vật cảnh, bảo tồn đa dạng sinh học và khu du lịch sinh thái”. Nay thành khu “Thiết chế tâm linh của bà con họ Trần cả nước – bc/ trang 11” là đúng hay sai ?
Báo cáo BCHHT trang 7: “Tại hội thảo này (2007), các nhà khoa học lịch sử, các vị có học hàm, học vị thông qua khảo cứu lịch sử, điền dã, dịch thuật các văn bản cổ, bài vị, thần sắc có từ năm 1938 khẳng định: Thái sư Trần Thủ Độ sinh năm 1194 tại làng Lưu Xá huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng nay là huyện Hưng Nhân, Thái Bình, là con của Đức Hoằng Nghị Đại Vương …”. Báo cáo viết là vậy nhưng kỳ thực các văn bản ấy chẳng có quan hệ nào đến Trần Thủ Độ hay Trần Hoàng Nghị như sau: 
        - VĂN BIA ĐÌNH AN HẠ tại thôn Miễu (xóm 1), xã Đông Quang, huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình, bản ảnh và bản dịch văn bia của PGS.TS Đinh Khắc Thuân (Viện nghiên cứu Hán Nôm): “Lá ngọc cành vàng được sinh ra từ Thần minh, Thánh đức, công lao ấy sáng rực đất trời, không thể không khắc bia để truyền lại muôn đời bất hủ.
Vào triều Lý, An Hạ vương là cháu của vua (Lý) Anh Tông (1138-1176), là bậc sang quý lắm vậy. Ngài vốn là người ở sách Động Nhuế, được hoàng hậu Cao Tông họ Đàm là chị, và Thái phó Đàm Dĩ Mông là anh, gả Đàm Chiêu Trinh em gái tức phu nhân An Hạ vương (thứ tự chị em: Đàm hoàng hậu, Đàm Dĩ Mông, Đàm Chiêu Trinh). Vào năm Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204) đời vua (Lý) Anh Tông, Ngài phụng mệnh đi dẹp giặc Chiêm, được nhân dân ủng hộ theo về. Xét công lao ấy phong tước An Hạ vương, cho trấn nhậm đất Nghệ An. Đến Trần quốc triều, năm Mậu Thìn – Thiệu Long thứ 11 (1268) tháng 8 nhuần ngày mồng 3, vương và phu nhân mất. Được tin, Trần Thánh Tông vô cùng thương xót, cho làm lễ truy niệm, cho khắc vào bia đá để truyền mãi đời sau. Công lao to lớn của Ngài từ 2 triều (Lý Trần) trở đi, xứng được lưu truyền muôn thuở trong sử sách. Gia phong “Hoàng tông vinh tộc (ban họ Trần nhà vua) quý thịnh linh ứng diễn phúc phù tộ hoằng độ thâm lược An Hạ đại vương”, bà phi được phong “Đàm thị tộc huân hạnh tiêu Chiêu Trinh phu nhân”. Chuẩn cho 2 cỗ quan tài đồng đưa về táng tại Ninh Cường thổ phụ nguyên quán Đàm thị, cho lập lăng miếu từ sở, cho dựng bia chí, sức (lệnh) cho dân bổn ấp phụng thờ, tế lễ hàng năm”. Vậy mà có người nói An Hạ Đại Vương là anh ruột của Thái sư Trần Thủ Độ ? Tác giả Lã Phương – Hội viên HKHLS Việt Nam cũng có bài viết về văn bia đình An Hạ, đồng thời cùng với Đào Văn Hồng – Nguyên trưởng phòng Quản lý Di tích Bảo tàng tỉnh Thái Bình còn cung cấp thêm 2 văn bản cổ nói về An Hạ đại vương là:
-Quán thôn tự điển: văn bản Hán Nôm viết tay dày 27 trang do cụ Đặng Đình Tập cựu Lý trưởng xã Trực Nội (từng đỗ khóa sinh) viết vào mùa thu năm Quý Hợi – Khải Định thứ 8 (1923), nói Lý An Hạ sinh năm Đinh Dậu - đời Anh Tông niên hiệu Trinh Phù năm thứ 2 (1277), (nêu các chức tước) mất tại Nghệ An (thọ 91 tuổi) cùng năm với phu nhân vào năm Thiệu Long thứ 11 (1268) triều Trần Thánh Tông. Đến năm Bảo Phù thứ 6 (1278), tức sau 10 năm mất, được Trần Thánh Tông cho phép nhân dân trong trang Hạnh Hoa chuyển linh cửu ông bà về quy táng tại thổ phụ Ninh Cường thuộc đất trang Hạnh Hoa thái ấp của phu nhân Đàm Chiêu Trinh, xây miếu thờ, cây cối mọc tốt sum xuê, không ai dám chặt phá, trong đó đặt nhiều tượng người đá, ngựa đá, rùa và chó đá, có 1 tấm bia có từ lâu đời…
-Văn bản điều tra của Hội khảo cứu phong tục thôn Quán, thôn Miễu năm 1938, văn bản viết tay chữ quốc ngữ gồm 15 trang, có phần sao lục các đạo Thần sắc bằng chữ Hán của các chức dịch thôn Quán, thôn Miễu. Nội dung theo mẫu của Viện Viễn Đông bác cổ, trong đó phần hỏi và đáp có nói về An Hạ đại vương và phu nhân Đàm Chiêu Trinh, tương tự như Quán thôn tự điển, có xác nhận, đóng dấu của Lý Trưởng xã Trực Nội là Vũ Tiến Nhạ người làng Quán …, (làng Quán nay là thôn Lê Lợi II, xã Đông Xuân; làng Miễu nay thuộc xã Đông Quang liền kề với xã Đông Xuân, cùng huyện Đông Hưng, Thái Bình)
          Vấn đề nữa là những tộc họ gốc Trần, như Đào Trần; Võ Trần (Đại tướng Nguyên Giáp); Cao Trần; Đặng Trần; Nguyễn Trần … là những chi phái phần lớn thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Trần. Vậy mà BCHHT Việt Nam lại phân biệt đối xử như Báo cáo BCHHT đã nêu thì tệ hại quá. Thiếu tướng PGS Đào Trần Quang Cát hậu duệ dòng trưởng của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, gia phả ghi: “Hồ Quý Ly sở soán, hựu hậu Trần Giản Định (nhị niên), Trùng Quang (ngũ niên) đắc thất niên, vị Minh, Trương Phụ sở cầm, Trần thị tôn phái lưu cư các xứ. Lê sơ bình Ngô, Trần hậu Nguyên Thiên (Nguyên Đán chi hậu) tùy Thái tổ thệ phục quốc thù, quan Tả tướng hậu bị ngộ, tự trầm nhi tử”, và “Thiên hoàng chính phái”, tức thuộc dòng con Hoàng hậu (dòng mẹ đích) và Trần Thái Tông truyền hạ.                      
Khu “Di tích lịch sử - văn hóa Phương La”, là sự mạo nhận đáng tiếc, nó đã phát sinh những hệ lụy khủng. Mong ai đó, nếu “3 tập văn bản” ấy của BCHHT được phổ biến đến mình thì hãy cố đọc kỹ để hiểu cái “thế sự trần gian” đáng ghét này!
                                                Tháng 1/2020
                                         Tổng hợp: Trần Phước Bình
(UVTT. BCH Họ Trần huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam)


(Gần đây ông Trần Văn Sen chuyển đến Quảng Nam cả hàng đống tài liệu nhằm tuyên truyền quan điểm chống cụ Đào Trần Quang Cát của ta. Nhân đó tôi có bài viết “Xung quang danh xưng …”. Tôi có trao đổi với các bác Họ Trần huyện Duy Xuyên, được các bác hoan nghênh ủng hộ, và có thể Nghệ nhân Trần Văn Anh đã chuyển tiếp cho bác Tiến, bác Luyện – Văn phòng Hội đồng Họ Trần Việt Nam. Nay gửi chú xem, góp ý (bản hiệu đính lần 3). Qua bài viết này tôi thấy Viện Sử học, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh và Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thái Bình cũng là nhân tố đồng thời cùng với ông Sen làm cho nội bộ họ Trần xung đột như hiện nay. Vấn đề cần được giải quyết từ gốc thì mới mong ổn thỏa …)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét