Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

ĐÁNG TRÂN TRỌNG TẤM LÒNG HẬU DUỆ ĐANG GẮNG CÔNG TÌM KIẾM THÔNG TIN KẾT NỐI DÒNG HỌ

Lời biên tập viên
Cách đây không lâu tôi nhận được thông tin của anh Trần Công Dương, hậu duệ của dòng họ Trần Công, nhà thờ tổ ở xóm 10 (Trung Hà) xã Diễn Thành - Diễn Châu - Nghệ An. Anh Dương đã tìm kiếm thông tin để kết nối dòng họ. Tôi đã nhờ bác Trần Phước Bình tham khảo và cùng trao đổi với anh Dương.
Cùng thời gian đó tôi còn nhận được thư cung cấp thông tin của anh Trần Trung Dũng - một người con họ Trần làng Long Đống, xã Hưng Tiến, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.
Điểm chung của hai dòng họ Trần Công (Diễn Thành Diễn Châu) và họ Trần Trung (Hưng Tiến Hưng Nguyên), trong Phú ý, gia phả có ghi tổ cô Trần Quế Hoa Nương. Gia phả họ Trần Trung còn ghi ngày mất và thông tin mộ chí của tổ Trần Quế Hoa Nương .

Cho đến nay biên tập viên đã tiếp nhận được thông tin các dòng họ Trần thờ tổ cô Trần Quế Hoa Nương:
1.     Dòng Trần Chân Tịch (hiệu Phúc Quảng) – Thanh Nghệ Tĩnh

2.     Họ Cao Trần (dòng phúc Quảng) – Giao Tiến Giao Thủy Nam Định

3.     Họ Trần Tam Lang, Bình Lục Hà Nam

4.     Họ Trần Công, Diễn Thành Diễn Châu Nghệ An

5.     Họ Trần làng Long Đồng Hưng Tiến Hưng Nguyên Nghệ An.
Như vậy tên hiệu Quế Hoa Nương là quý danh trong nhiều dòng họ dành cho người (cháu gái của dòng họ) đã khuất. Nhiều dòng họ khác cũng có tên hiệu Quế Hoa Nương. Do đó để kết nối dòng họ chúng ta cần tìm kiếm các thông tin khác nữa. Đây quả là việc không dễ do thời gian chiến tranh giặc dã, thiên tai hỏa hoạn tài liệu thất lạc hoặc đời sống văn hóa tinh thần khó khăn ít người giữ gìn được Ngọc phả cho dòng họ.
Sau đây tôi xin trích đăng phần đầu Gia phả họ Trần làng Long Đồng Hưng Tiến Hưng Nguyên Nghệ An, do anh Trung Dũng gửi. Kính mong độc giả cung cấp thông tin liên quan xin gửi về hocaotran@gmail.com.

PHẢ KÝ VẮN TẮT HỌ TRẦN LÀNG LONG ĐỐNG

1. Quá trình phát triển dòng họ:  
  
                              
Tổ tiên dòng họ ta xưa gia phả bị rách nát cho nên từ đời ông Thỉ tổ về trước không được rõ và sau đó 5 đời về sau cũng chỉ biết sơ lược mà thôi.
Theo sự truyền miệng của các bậc cha anh thì ông tổ họ ta là ông Trần Dĩnh Xuyên, tên húy là Sỹ, trước ở vùng huyện Thạch Hà [[1]], tỉnh Hà Tĩnh, không rõ làng xã.
Khoảng đời nhà Lê, thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, ông đưa mộ cha mẹ, ông bà ra táng tại quê ta và đem 3 người con trai ra đây lập nghiệp khoảng gần 400 năm.
Thời đó vì sợ bắt lính (theo lệ nhà Vua nếu 3 đinh bắt 2; 2 đinh bắt 1), vì nếu đi lính thì không tránh khỏi cảnh “nồi da nấu thịt”; bởi thế ông gửi 2 người con trai của mình đi 2 nơi khác nhau. Người con thứ hai lên Láng Thôn xã Thông Lãng (xóm 9 xã Hưng Thông ngày nay). Người con thứ ba gửi tại làng Yên Pháp (nay thuộc vùng tiếp giáp xã Hưng Phúc và xã Hưng Thịnh ngày nay). Con trưởng là Trần Đăng Vinh để lại quê ta.
Vậy ông Trần Đăng Vinh là ông tổ đầu tiên sáng lập ra họ Trần tại làng Long Đống, tức là vùng xóm 14 xã Hưng Tiến ngày nay.
Ông Trần Đăng Vinh bình sinh học hành thông minh, thông hiểu thiên văn địa lý. Ông đưa mộ cha là ông Trần Dĩnh Xuyên táng tại Hòn Phủ - Rú Thành, ngôi mộ tựa vào án núi, 2 bên có hai dãy núi cao ôm lại, phía Đông có thành đá ong của thành Nghệ An năm xưa, nhìn về phía Tây có cánh đồng bát ngát, thơ mộng, ngoảnh mặt ra trước ngã ba phủ chợ Tràng, nơi mà “ Nhật bách bái, Dạ bách Đăng”, nghĩa là ban ngày có hàng trăm chiếc thuyền trên dòng sông Lam như chúc đầu bái vào mộ; ban đêm có hàng trăm ngọn đèn sáng bái vào mộ tổ. Thật là một danh lam thắng cảnh hiếm có. Còn mộ mẹ ông táng tại Bàu Khanh, đứng trên mộ ông nhìn về rất rõ.
Riêng ông Trần Đăng Vinh tạo 3 sào ruộng tại xứ Đồng Vịt, làng Văn Xá. Ông bà làm nhà ăn ở và mở trường dạy học ở đó. Khi ông bà mất, mồ mả táng tại 3 sào ruộng đó với 2 ngôi mộ rất to (Chữ gọi là “sinh cư tử táng”, nghĩa là khi sống ở đó thì khi mất thì táng ở đó luôn. Vì theo địa lý thì nơi đây là đất kết phát, con cháu đông đúc và làm nên danh vọng.
Còn con ông là Trần Phúc Quán đem lên lập gia cư tại làng Long Đống xã Hưng Tiến ngày nay, và từ đó con cháu ngày một trưởng thành đông đúc đời này qua đời khác tại làng Long Đống ta vậy.


SƠ TỔ THỨ NHẤT:

 -  Tổ Khảo (không có húy tự) gọi là ông Thắng, bà Thắng.
       Tỵ tổ khảo tục hiệu hô danh:
Ông Thắng: mất ngày 01/3 (mộ không rõ)
       Tỵ tổ tỷ tục hiệu hô danh:
Thắng: mất ngày 24/3 (mộ không rõ).
   
SƠ TỔ THỨ HAI:

-  Tổ Khảo (không có húy tự) gọi là ông Rường, bà Rường.
        Tỵ tổ khảo tục hiệu hô danh:
 Ông Rường: mất ngày 05/9 năm Mậu Tý (mộ táng tại Dăm Chiêu)
       Tỵ tổ tỷ tục hiệu hô danh:
Rường: mất ngày 23/3 (mộ táng tại Lộ Mội).

ĐỜI THỨ NHẤT:

 Tổ Khảo Trần Dĩnh Xuyên
Là thủy tổ Đại tôn họ Trần ta, tên húy là Sỹ, hiệu là Dĩnh Xuyên quận[[2]] .Ông lấy vợ con gái đầu lòng người họ Nguyễn (có gia phả ghi họ Hồ), húy là Dỏng hiệu là Trần Lưu quận[[3]]. Nghe truyền ông bà có 3 người con trai: con trai trưởng là Trần Đăng Vinh (tổ của họ Trần làng Long Đống), con trai thứ hai không rõ tên, tục gọi là ông Thầy sống ở Láng Thôn xã Thông Lãng  (nay là xóm 9, xã Hưng Thông, tọa độ: +18° 37' 58.32", +105° 36' 51.07"), con trai thứ ba không rõ tên ký gửi tại làng Yên Pháp (nay thuộc địa phận tiếp giáp 2 xã Hưng Phúc và Hưng Thịnh).
Tổ cô bà: Trần Thi Lãm (hay Thị Lạm).
Tổ cô bà: Trần Thị Văn
         Tứ đại tổ cô bà hiệu Quế Hoa Nương (mất ngày 12/2)
         Các bà tổ cô trên đây không không rõ là thế thứ như thế nào.
Gia phả gốc bằng Hán văn do ông Trần Đức Cảnh tục biên không ghi rõ năm sinh năm mất của ông, chỉ biết ngày mất của ông là ngày 14/3, mộ táng tại Hòn Phủ, Rú Thành (hướng cấn, tọa độ gần đúng: 18°35'13.1"B 105°37'59.8"Đ, trong đó B: vĩ độ bắc, Đ là kinh độ đông).
Bà mất ngày 13/10 (có tài liệu ghi 12/10) năm Mậu Tý (có thể là năm 1708 ?), mộ cải táng tại xứ Bàu Khanh (đinh long nhập thủ, tọa Dậu hướng Mão).

ĐỜI THỨ HAI:

- Tổ Khảo Trần Đăng Vinh
Gia phả ghi tên ông là Hồ Đăng Vinh và không nêu rõ lý do ông mang họ Hồ, húy Đao, là con trai trưởng ông Trần Dĩnh Xuyên. Ông lấy vợ con gái thứ hai họ Phan, húy Thị Khoản sinh hạ được 1 con trai tên là Trần Phúc Quán. Ông bình sinh học giỏi, đậu hiệu sinh, được miễn binh sĩ. Ông bèn tạo 2 sào ruộng xứ Đồng vịt, làng Văn Xá (tức là xóm 16 xã Hưng Thắng ngày nay) cùng xã (tức là xã Trung Mâu), giữa ruộng có huyệt mã tốt, ông bèn làm nhà trên ruộng, mở trường dạy học trò.
Ông  sinh năm Nhâm Ngọ (1642)[[4]], mất ngày 10/8, mộ táng tại thửa ruộng ấy xứ đồng vịt làng Văn Xá (tọa độ: +18° 37' 45.36", +105° 38' 31.92").
Bà sinh năm Bính Ngọ[[5]], mất ngày 09/8, mộ cùng táng tại phía bắc ruộng ấy xứ đồng vịt làng Văn Xá.
Hiện nay mộ 2 ông bà đã được cải táng đưa về tại Đình Nam (tọa độ khu vực: +18° 36' 48.36"B, +105° 37' 25.44"Đ).
Họ ta lấy ông làm tổ sáng lập, hàng năm xuân thu nhị kỳ chính tế, lấy ông là vị tổ chính để tế, đời đời không thay đổi.
Hiệu bụt:
Tổ khảo tiền bản phủ hiệu sinh Hồ quý công tự Đăng Vinh thụy minh mẫn phủ quân.
Tổ tỷ tiền tòng phu bản phủ hiệu sinh Hồ quý công chính thất Phan thị hạng nhị nhụ nhân.

ĐỜI THỨ BA:

- Tổ Khảo Trần Phúc Quán
Húy Phan, hiệu Phúc Quán, là con trai thừa tự ông Trần Đăng Vinh. Ông cũng học giỏi nối nghiệp cha đậu hiệu sinh lấy nghề dạy học làm gốc, bản tính hiền hậu, gia tư phong phú. Ông lấy vợ con gái thứ ba họ Hoàng, húy Thị Hành sinh hạ 6 con trai:
TT
Họ Và Tên
Chi
Ghi chú
1
Trần Hồ                   
Viện
I
Hay là Hồ Viễn
2
Trần Hồ                    
Dĩnh
II
Hay là Hồ Dịnh ([6])
3
Trần Như                 
Kim
III

4
Trần Hồ                   
Việp
IV
Có gia phả gọi là Hồ Hoa
5
Trần Hồ                   
Toại
V

6
Trần Danh               
Hoán

Mất sớm

Ông sinh năm Ất Sửu (1685)[[7]], mất ngày 13/3 năm Kỷ Mùi (1739), thọ 55 tuổi, phần mộ an táng tại Cổ Cò (Thân long nhập thủ, tọa Khôn hướng Cấn, Ất Sửu vị phân kim), nay chuyển lên Bàn Cau – Đình Nam.
Bà sinh năm Nhâm Tuất (1682), mất ngày 07/11 năm Đinh Sửu (1757), thọ 76 tuổi, mộ táng xứ Bàn Cau Đình Nam (Mộc tinh kết cục, đinh long nhập thủ, tọa Khôn hướng Cấn, Ất Sửu Ất vị phân kim).

[1] Danh xưng Nghệ An vào năm Canh Dần (1030) do Uy Minh Vương Lý Nhật Quang (là con trai thứ 8 vua Lý Thái Tổ, là em của vua Lý Thái Tông) đặt. Tại thời điểm ông thủy tổ chúng ta về đất Hưng Nguyên thì cũng chưa có tên tỉnh Hà Tĩnh. Năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Huyện Thạch Hà lúc đó có quy mô khá rộng lớn bao gồm huyện Thạch Hà ngày nay, TP Hà Tĩnh, một phần của huyện Lộc Hà và Can Lộc.
[2] Xem phụ lục 1, có ý nghĩa là họ Trần
[3] Xem phụ lục 1, có ý nghĩa là họ Nguyễn
[4] Năm Dương Hòa thứ 8 vua Lê Thần Tông, chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng.
[5] Nếu bà sinh năm Bính Ngọ có thể là năm 1606 hoặc 1666. So với ông Đăng Vinh (sinh Nhâm Ngọ 1642) thì không được hợp lý, bởi nếu là năm 1606 thì bà hơn ông 36 tuổi, nếu là năm 1666 thì ông hơn bà 24 tuổi. Như vậy ta chỉ có thể lấy năm sinh của một người làm chuẩn rồi suy ra năm sinh của người kia và ngược lại. Trường hợp thứ nhất: Khi lấy năm sinh Nhâm Ngọ 1642 của ông làm chuẩn thì tuổi của bà phù hợp nhất là năm Bính Tuất 1646, lúc đó ông có người con trai Phúc Quán lúc 43 tuổi. Trường hợp thứ hai: nếu lấy năm sinh Bính Ngọ 1666 của bà làm chuẩn thì năm sinh của ông hợp lý nhất là Nhâm Dần 1662, lúc này ông vẫn hơn bà 4 tuổi, ông hơn con trai là Phúc Quán 23 tuổi (sinh năm Ất Sửu 1685). Theo tôi thì tôi nghiêng về trường hợp thứ hai nhiều hơn.
[6] Đây là cách đọc theo phương ngữ Nghệ Tĩnh
[7] Năm Chính Hòa thứ 6 vua Lê Hy Tông, chúa Nam Định Vương Trịnh Căn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét