Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

TRƯỞNG TỬ ĐÍCH TÔN TRẦN CÔNG NGẠN LÀNG THỌ AN, HUYỆN QUỲNH LƯU VÀ TỰ TÍCH CHI HỌ CAO TRẦN, CHI HỌ TRẦN PHƯỚC.



Lời biên tập viên

Các bài viết mang tính chất khảo cứu nguồn gốc các chi nhánh dòng họ của tác giả Trần Phước Bình thực sự là các công trình khoa học, có ý nghĩa lớn đối với dòng họ. Trước đây bác Trần Phước Bình đã biên tập nhiều tài liệu liên quan đến đề tài này. Nay bác Bình lại tiếp tục phát triển và đưa ra một số nhận định mới có tính thuyết phục. Kính mời các độc giả quan tâm nghiên cứu và bổ sung. Một lần nữa Biên tập viên Dòng họ Cao Trần xin trân trọng cảm ơn bác Trần Phước Bình. Kính chúc bác và gia đình mạnh khỏe an lạc. 

Sau đây là nội dung bài viết của tác giả Trần Phước Bình:



Gia phả cổ Nghệ An ghi:

Ngã tổ Pháp Độ công dĩ thiên hoàng chính phái (Thời cụ đối bất cảm tường sở xuất). Ư Lê Hồng Đức – Thánh Tông ngũ niên (Giáp Ngọ 1474), dữ đệ nhị nhân Thỉ tự Sơn Nam thiên Thanh Hóa trú lục niên. Lưu Trưởng, thứ nhị tử dữ tổ Bà tại Tống Sơn huyện, nãi huề Đệ tam nam Thiện Tính công vãng cổ Hoan, tầm thiên Thái Xá, trú trì vu Phì Cam tự (hiệu Liên Hoa tự) nội đạo trứ danh, bốc thọ tàng tại Hào Cường thôn phúc địa hậu làng xứ, tọa Mão hướng Dậu kim tồn, trúc thổ trạch tại Phú Hữu, Cồn Dù xứ (cổ hiệu Nương Mao). Nam Thiện Tính công hiệu Chân Thường sinh tam nam:

- Nhất lang Trần Chân Tịch hiệu Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng.

- Nhị lang Trần Chân Tính hiệu Huyền Thông.

- Tam lang Trần Chân Thiên hiệu Huyền Linh.

Tổ Trần Chân Tịch và bà Hoàng Thị Tâm. Giỗ ông ngày 23 tháng 8 âm lịch, cúng hợp kỵ ngày 27/03.

Phần mộ ông bà Chân Tịch tại Bảo Tháp, xã Diến Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Ông bà sinh hạ được 4 con trai, được mấy con gái không rõ nhưng cả dòng họ Chân Tịch thờ cô tổ Quế Hoa Nương.

* Con trai trưởng là Trần Công Ngạn ở làng Thọ An.

* Con trai thứ 2 là Trần Phúc Thọ sinh hạ Trần Thủ Hạnh và Trần Đắc.

     - Trần Thủ Hạnh sinh hạ các chi họ hậu duệ ở các xã Diễn Hồng, Diễn Tháp, Diễn Bình, Diễn Vạn, Diễn Kỷ, Diễn Đồng, Diễn Thọ, xã Vĩnh Thành huyện Yên Thành, Diễn Liên, Diễn Tháp, Diễn Lâm, Diễn Phong, Diễn Ngọc.

                          (cháu 4 đời của tổ Thủ Hạnh có một ông Phúc Thiện)

- Trần Đắc sinh hạ các chi họ Hải Thanh huyện Nghi Lộc, và Tiền Song Diễn Thịnh,......

* Con trai thứ 3: Trần Chân Tâm, ông về xã Đông Lũy, nay xã Diễn Phong, sinh hạ dòng Đông Lũy. Hậu duệ đời thứ 5 gồm các ông Trần Phúc Thiện, Trần Chỉnh, Trần Bá.

* Con trai thứ 4: Trần Danh Di sinh hạ các chi Quỳnh Diễn, Quỳnh Thọ, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Thuận.



Theo tư liệu trên thì tổ Thiện Tính Công theo cha là Pháp Độ Công từ đất huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, vào Nghệ An năm 1479. Năm đó Thiện Tính Công chưa có vợ. Nếu tổ Thiện Tính cưới bà Lê Thị Từ Phúc (hiệu ông bà Chân Thường) vào khoảng năm 1485 – 1490, hơn năm sau sinh tổ Chân Tịch húy Phúc Quảng, và 20 năm sau tổ Chân Tịch sinh ra tổ Công Ngạn sẽ vào khoảng năm 1511. Đến năm 1533, Nguyên Hòa năm thứ 1, tức năm Lê Ninh lên ngôi hoàng đế hiệu Trang Tông tại sách Sầm Hạ nước Ai Lao, ngài Công Ngạn đã trên 20 tuổi.

Gia phả Nghệ An chép Trưởng tử  Đích tôn Trần Công Ngạn ở làng Thọ An. Ngoài ra, không có một thông tin nào về mồ mả và cảo huyệt, về hậu duệ, và cũng không có Hán tự xác định mất sớm hay vô tự ? (theo biên bản Nghệ An nhìn nhận Nha Chử thì có phụ chú Hán tự vị tường, vị nhận).

Về gia thế Trần Công Ngạn có thể tóm lược, ông thuộc dòng dõi Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải văn võ song toàn, ông tổ là Thái úy Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, ông cố là Thiết chế Tướng công Trần Pháp Độ, ông nội là bậc Nho gia uyên bác, tu hành theo đạo pháp nhà Phật, hiệu Chân Thường, người cha nối gót tổ tông hiệu Huyền Nghiêm tự Chân Tịch húy Phúc Quảng, Nhị vị thúc phụ hiệu Huyền Thông, Huyền Linh đều là những bậc chân tu uyên bác, không tham gia chính sự, đã sinh hạ những dòng Trần tộc có tiếng thơm nơi đất Nghệ An. (Riêng dòng tổ nội thúc Bảo Tín con mẹ thứ, nhờ ẩn thân nơi quê ngoại, thi đỗ Bảng nhãn làm quan đời Hồng Thuận đến Thống Nguyên, năm họ Mạc tiếm ngôi ông từ quan về ở ẩn. Đến năm Lê Trung Hưng thành công, ông được truy tặng hàm Thượng thư Phúc thần. Mới được nhìn nhận gần đây).

Hành trạng, phần mộ và cảo huyệt các vị Tiên hiền được hậu duệ tại Nghệ An bảo tồn lưu giữ cho đến hiện nay.

Làng Thọ Sơn thuộc huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, là bản quán hay sự tích đầu mối gắn liền với số phận của gia đình Trần Công Ngạn.

Theo kết quả khảo sát của chi họ Nha Chử, thì làng Thọ Sơn, sau cải làng Trung Chính, nay xóm Trung Chính, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hán tự Trung Chính 忠政,có nghĩa “dốc lòng tòng chính – hết lòng vì sự nghiệp chính nghĩa”.



Để làm rõ vấn đề mấu chốt này trong thế phổ Thái Xá, và các chi họ có liên quan. Chúng ta có những nguồn tư liệu sau đây:



1. Sự kiện quan quân nhà Lê trung hưng từ nước Ai Lao về đất Nghệ An. ĐVSKTT chép:

- Canh Tý, Nguyên Hòa năm thứ 8 (1540), Mùa xuân tháng giêng, ngày 15 Mạc Đăng Doanh chết, con Mạc Phúc Hải lên ngôi.

Tháng 11, Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An, hào kiệt phần nhiều theo về, thanh thế rất lừng lẫy, đến đâu là gần xa đều hàng phục.

- Nhâm Dần, Nguyên Hòa năm thứ 10 (1542), Vua lấy Thụy quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống ngự giá để mưu việc tiến đánh, sai Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước, tiến đánh các nơi ở Thanh Hoa, Nghệ An. Tướng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này phần nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh.



2. Thế phổ Nha Chử: Nguyên văn âm Hán tự lời tựa và 2 đời đầu:

Thiên tích tính dĩ lập tông bản hệ sở tự xuất nhi khởi gia xưng Thỉ tổ kế tự đương tư bất vong.

Ngã Cao tộc phát tích tự Trần gia triệu cơ nhân vu Nha Chử tiền tác hậu thuật khẳng cấu khẳng đường.

Ngưỡng thâm khải hựu chi nhân cánh thiết tác cầu chi niệm viên thị tập vi phổ lục vĩnh thị tông khiêu thứ hồ tự sự khổng minh nhi thế thứ khả kỷ giả dã.

- TRẦN QUÝ CÔNG   tự VÔ TÂM.

- TRẦN NHẤT LANG tự PHÚC THIỆN.

- TRẦN NHỊ LANG     tự PHÚC TÍN.

- TRẦN TAM LANG   tự CHÂN KHÔNG.

- TRẦN QUẾ HOA NƯƠNG.

Dĩ thượng chư chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán. Vô Ý công thiên vu tư địa tập biên gia phổ tương Trần tính duệ hiệu thư vu thế phổ (chi) thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã.

                        ĐỆ NHẤT ĐẠI THẾ HỆ.

Sáng nghiệp khai cơ Thái tổ khảo Cao Quý Công tự Vô Ý, chánh ngoạt thập bát nhật kỵ, mộ tại Đồng Trưng nhị độ, thứ Nhị công húy là ông Bông.

Nguyên tiền tại Thanh Hoa tỉnh, Lôi Dương huyện, Thịnh Mỹ xã, tục hiệu là Đò Mia. Thỉ thiên vu tư cải tính Cao Cái tự Công thỉ dã.

Thái tổ tỷ Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín, cửu nguyệt, nhị thập cửu nhật kỵ, mộ tại cựu quán.

Tỷ sanh đắc tam nam, Trưởng Cao Nhất Lang tự Chân Tính tập tước Bình Luận Công tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán, bát nguyệt, thập cửu nhật kỵ. Thứ viết Công Bật, Tam viết Quý Lang tự Hiếu Lương tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán, bát nguyệt, nhị thập tam kỵ. Tứ nữ Cao Nhất Nương hiệu Từ Thanh tục là bà Độ, thất nguyệt sơ tam nhật kỵ, Nhị hiệu Từ Tại, cửu nguyệt, thập cửu nhật kỵ, Tam nương hiệu Từ Minh tục là bà Thọ, bát nguyệt, nhị thập tứ nhật kỵ, Cao Quý Nương Tiên Hoa Nương tục là bà Triều Hữu, nhị nguyệt, sơ tứ nhật kỵ.                        

                                   ĐỆ NHỊ ĐẠI THẾ HỆ

Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật* thụy viết Phúc Hậu, thập nguyệt sơ tứ nhật kỵ, mộ tại cựu Thượng xứ Nhất độ, thứ Ngũ công. Nãi Vô Ý Công chi thứ tử dã. Húy Căn, hậu cải Công Bật tập tước Dự Nghĩa công thú tam phòng.

Ư Lê triều Dụ Tông Vĩnh Thịnh cửu niên Quý Tỵ, phỏng chánh lâm Phật hậu. Chí Vĩnh Thịnh thập tứ niên Mậu Tuất phỏng bổn thôn hậu Phật.

Án ngô tộc tự Vô Ý công Tướng công vu tư tân ấp nhất phụ nhất tử. Thử thời nhân đinh thượng tồn hy thiểu. Chí vu công Tam phòng quảng tự tiệp hữu qua điệt miên sanh chi triệu, hiện thử tắc công thành khởi chi tổ dã”.



Tư liệu Nha Chử đã viết nhiều lần về ngôi Sáng nghiệp khai cơ dòng Cao Trần:

Lời tựa ghi: “Ngã Cao tộc phát tích tự (迹自: mở ra dấu vết bởi) Trần gia triệu cơ nhân vu Nha Chử”, có nghĩa, Ta Cao tộc mở ra dấu vết từ họ Trần gây mới cơ nghiệp cúng tế hết lòng (cúng tế mừng cơ nghiệp mới gây dựng), thì đi Nha Chử.

Vô Ý công thiên vu tư địa tập biên gia phổ tương Trần tính duệ hiệu thư vu thế phổ chi thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã”.

Thế phổ đời thứ nhất chép: “Sáng nghiệp khai cơ Thái tổ khảo Cao Quý Công tự Vô Ý, chánh ngoạt thập bát nhật kỵ, mộ tại Đồng Trưng nhị độ thứ Nhị công húy là ông Bông. Nguyên tiền tại Thanh Hoa tỉnh, Lôi Dương huyện, Thịnh Mỹ xã, tục hiệu là Đò Mia. Thỉ thiên vu tư cải tính Cao Cái tự Công Thỉ dã”.

Thế phổ đời thứ 2, ghi: “Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật* thụy viết Phúc Hậu, thập nguyệt sơ tứ nhật kỵ, mộ tại cựu Thượng xứ nhất độ thứ Ngũ công. Nãi Vô Ý Công thứ tử dã. Húy Căn, hậu cải Công Bật tập tước Dự Nghĩa công thú tam phòng”.



Phân tích đoạn trích thế phổ Nha Chử cho biết: Ta Cao tộc mở ra dấu vết tự họ Trần gây mới cơ nghiệp, cúng tế hết lòng, thì đi Nha Chử. Tộc ta lắng xuống từ ngài Vô Ý công Tướng công đi ấp mới ấy chỉ có một cha, một con. Vô Ý công cùng con trai thứ là Công Bật dời đến tân ấp Nha Chử, mộ 2 ông đều tại Nha Chử. Bà hiệu Từ Tín, con trai trưởng và con trai út, mộ đều nằm lại nơi cựu quán. Thế phổ còn có mấy điểm nhấn, Vô Ý công là con trai thứ (thứ tử dã), sinh hạ Thứ viết Công Bật, húy Căn, hậu cải Công Bật (tập tước Dự Nghĩa công), là Giáp phái Tổ khảo Cao Trần, sinh hạ dòng Nha Chử. Lại một khẳng định nữa: “Án ngô tộc tự Vô Ý công Tướng công vu tư tân ấp nhất phụ nhất tử”.

         

Vậy, ngôi sáng nghiệp khai cơ dòng Cao Trần là người con trai thứ, tên tự Vô Ý công Tướng công, phối bà Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín, sinh hạ 3 nam 4 nữ tại cựu quán (không nêu địa danh cụ thể). Trong 3 nam theo thế phổ “Trưởng Cao Nhất Lang tự Chân Tính tập tước Bình Luận Công tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán. Thứ viết Công Bật, Tam viết Quý Lang tự Hiếu Lương tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán”. Thế phổ chép: “Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật* thụy viết Phúc Hậu” tức phái nhất của dòng họ có ít nhất là hai phái: Giáp, Ất nên mới ghi vậy. Hay chăng, Giáp phái là sự xác nhận ngôi vị của ngài Trần Quý Công tự Vô Tâm, sinh hạ Phúc Thiện – Phúc Tín – Chân Không. Thế phổ còn chép: “Thử thời nhân đinh thượng tồn hy thiểu”, có nghĩa bên ấy, con trai còn rất ít, chưa rõ là bên nào, ở đâu. Sự kiện nào đã khiến cho bên này (Nha Chử) chỉ còn Nhất phụ nhất tử, sách Phổ lục của cả dòng họ đã được lập trước đó, do đâu mà chi họ Cao Trần không lưu giữ được. Đây là những chi tiết quan trọng trong quá trình xác định đầu mối, dấu vết để kết nối dòng dõi nơi Phổ lục lập trước thế phổ Cao Trần, mà nay nhìn nhận chính là dòng họ Trần Pháp Độ tại xã Thái Xá.



Đứng đầu hàng 5 vị danh tính họ Trần nơi cựu quán Thanh Hóa, được chép nơi lời tựa, là Trần Quý Công tự Vô Tâm. Nếu xác định ngài là thân phụ của Cao Quý Công tự Vô Ý tướng công, là tổ nội của tập tước Bình Luận công và Dự nghĩa công. Thì Trần Quý Công tự Vô Tâm phải là bực công thần khai quốc triều Lê Trung Hưng. Nhưng vì sao thế phổ không ghi chép rõ ràng, chính sử không một lần nhắc đến danh tính, tước hàm của Ngài. Tất cả như được gửi gắm nơi tên tự Vô Tâm, và người con là Vô Ý. Trong lịch sử chỉ thấy ghi chép một vài vị danh sĩ có tên tự là Vô Sự, không một ai tự nhận mình là người vô tâm, bởi theo Nho giáo tâm đức là vốn quý nhất của kẻ sĩ. Vô tâm, vô ý thông thường là lời xin lỗi khiêm nhường.

Nha Chử còn lưu giữ câu đối cổ nơi Từ đường:

“Khởi gia tự tích Ái châu lai.

      Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất”

Tạm dịch:

 Nhà khởi lên từ  đầu mối, dấu vết  trở lại (về sau) nơi đất Thanh Hóa.

 Truyền thế đang sơ (sơ nhất, sơ nhị, ...  sơ thập thế), xuất ra từ hậu duệ họ Trần.



Chữ Trần duệ đối với đất Ái châu, nên hiểu họ Trần đã trải qua nhiều đời.

(ĐVSKTT chép địa danh Thanh Hóa lần đầu tiên tại BK 12-25a/ Quang Thuận năm thứ 7 (1466): “Đặt 13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa ..

Hán tự lai có nghĩa: lại, về sau // chữ tự: đầu mối //  chữ tích: dấu vết, theo dấu “phàm sự vật gì đã qua rồi mà còn có dấu vết để lại cho người noi đó mà tìm kiếm đều gọi là tích”.)

Chữ lai : lại, về sau, đối lại chữ vãng : đi, đã qua (theo giải nghĩa của tác giả Thiều Chửu là chính xác nhất). Nên chữ lai nơi vế đối có nghĩa là trở lại là phù hợp, còn do chữ lai đối chữ xuất tương đồng với nghĩa ra đi. Theo đó, câu đối khẳng định khởi gia trong sự kiện đầu mối trở lại Thanh Hóa, mới chỉ mấy đời, xuất ra từ hậu duệ họ Trần đã trải qua nhiều đời. Với nghĩa đó thì dòng họ đã có thời gian định cư tại Thanh Hóa, rồi dời cư đi nơi khác, lại trở về Thanh Hóa làm nên sự tích. (động từ đến, Hán tự là chữ chí là phổ biến)  

Nội dung câu đối rất phù hợp với sự tích dòng Tướng công Trần Pháp Độ, con trai của Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn.

Thế phổ Nha Chữ chép hàng Quý Công có đến 3 vị: Trần Quý Công tự Vô Tâm tại cựu quán (chép ở lời tựa), Cao (Trần) Quý Công tự Vô Ý, và Cao (Trần) Quý Công tự Công Bật (đời thứ 1 và 2 thế phổ Cao Trần),  đời thứ 3 còn có 2 vị được tập tước Bình Luận công và Dự Nghĩa công. Thanh Hóa thời Nam Bắc triều (1541-1593), nơi vua Lê đóng hành cung (hành điện). Vị tổ khai sáng dòng Cao Trần, khi đến Nha Chử với cảnh ngộ “Nhất phụ, nhất tử”, đã cải họ Trần Quý Công, thành Cao Công, mà  không cải họ Nguyễn Công, Phạm Công, hoặc một họ nào khác không có tên đệm chữ Công. Cao Công, chữ cao : đích thực là họ Cao, nhưng nghĩa chính là cao lớn, trái với thấp lùn; lại còn dùng Hán tự Cao Cái, Cao Quý Công. Vậy, Cao Công nghĩa bóng là người có công to lớn. Trong lịch sử vua chúa Việt Nam, một đời người, một dòng tộc để lại dấu vết, thông thường là bậc công thần, hoặc có công lao làm nên sự kiện nào đó với vua, với nước, hoặc làm quan nơi triều chính ….., được ghi nơi chính sử, thế phổ, bia ký của dòng họ. Thế nhưng các vị Quý Công của ta không hề thấy chính sử ghi chép danh tính, thế phổ, gia phả Nha Chử cũng không thấy ghi chức tước, sự nghiệp của các Ngài. Điều này có thể khẳng định là do các ngài gặp nạn triều đình.

Theo khảo cứu của chi họ Cao Trần ngày nay, làng Thọ An sau cải làng Trung Chính, xã Thịnh Mỹ (huyện Lôi Dương) sau cải làng Tứ Trụ 四柱, làng của các quan Tứ trụ, đại thần của triều đình, rất có thể việc thay đổi tên làng đã diễn ra dưới triều Lê Trung Hưng. Đây cũng là yếu tố xác định gia đình Trần Công Ngạn làm quan nơi Lê triều Trung hưng, rất phù hợp với nội hàm vế đối: “Khởi gia tự tích Ái Châu lai”.



3. Nguồn sử liệu chính sử:

Gia phả Thái Xá ghi: Trần Công Ngạn sinh khoảng năm 1511, tại làng Thọ An, là Đích tôn của dòng Thái Xá, ngoài ra không có ghi chú gì ? Lần theo chính sử triều Lê và triều Nguyễn, tìm những vị quan tên Ngạn:

a. Thiệu Bình năm thứ 4 (1437): Vũ Đình Ngạn làm Ty hình viện đại phu.

b. Hồng Đức năm thứ 10 (1479): .... Trấn Lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn

c. Hồng Thuận năm thứ 8 (1516), đời Lê Tương Dực: Thuần Mỹ điện giám Trần Cảo ở trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường làm loạn.... Trong đó có Phan Ất, Đình Ngạn, …. (trong năm này vua Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết chết, An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ cùng một số quan khác, lập Lê Chiêu Tông làm vua, những làm loạn đều bị giết)

d. Chính Trị năm thứ 5- Mạc Thuần Phúc năm thứ 1(1562), Phò mã đô úy Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn làm Chưởng phù Tây vệ.

đ. Hồng Phúc năm thứ 1 – Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), vua Lê Anh Tông bị giết, quan đại thần Cảnh Hấp, Đình Ngạn gặp nạn.

e. Quang Hưng năm thứ 6 - Mạc Diên Thành năm thứ 6  (1583), Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho Nguyễn Tuấn Ngạn đỗ tiến sĩ cập đệ, ...

g. Đinh Dậu, năm thứ 40 (1597), Đại Nam thực lục chép: …. cùng tướng nhà Lê là Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn , …..

       Tổng hợp từ năm 1437 – 1597, có 4 vị Đình Ngạn, trong đó có ghi họ là 2 vị: Vũ Đình Ngạn làm quan năm Thiệu Bình (đời Lê Thái Tông), Lê Đình Ngạn làm quan năm Hồng Đức (đời Lê Thánh Tông); 2 vị không ghi họ: Đình Ngạn làm quan, gặp thời loạn, chết năm Hồng Thuận (đời Lê Tương Dực), và Đình Ngạn làm quan năm Hồng Phúc đời Lê Anh Tông.

Như vậy, duy nhất chỉ có quan cận thần Đình Ngạn và Cảnh Hấp gặp nạn dưới triều Lê Anh Tông, là phù hợp với năm sinh khoảng 1511 của Trần Công Ngạn, và sự nghiệp trung hưng nhà Lê, mà hành cung của vua đóng tại sách Vạn Lại, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa.



Sự kiện quan cận thần Cảnh Hấp và Đình Ngạn bị hại, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Hồng Phúc năm thứ 1 – Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), Mùa xuân tháng giêng, vua tế trời đất ở đàn Nam Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất. Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu là Hồng Phúc năm thứ 1.

Tháng 11 ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hại Tả tướng Trịnh Tùng. Tả tướng giả vờ không biết, gửi biếu nhiều vàng. Khi Cập Đệ đến tạ ơn, Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết chết, tướng sĩ các ngươi không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì phải giết cả họ. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động.

Bấy giờ, Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: “Tả tướng quốc cầm quân, quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng cùng tồn tại với ông ta được”. Vua nghe nói vậy, hoang mang nghi hoặc, đương đêm bỏ chạy ra ngoài, đem theo bốn hoàng tử cùng chạy vào thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng bàn với các tướng rằng: Nay vua nghe theo lời gièm pha của kẻ tiểu nhân đem ngôi báu xiêu giạt ra ngoài. Thiên hạ không thể một ngày không có vua, ... Chi bằng trước hết hãy tìm hoàng tử lập lên để yên lòng người, rồi sau sẽ đem quân đi đón vua cũng chưa muộn. Bấy giờ hoàng tử thứ 5 là Đàm ở xã Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên, bèn sai người đi đón về tôn lập làm vua, đó là Thế Tông.

Gia Thái năm thứ 1-Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1573), tháng giêng ngày mồng một, ... tôn hoàng tử lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá, ban dụ đại cáo: “.... Ngày 26 tháng 2, bị kẻ gian là bọn Cảnh Hấp, Đình Ngạn gièm pha, ly gián, đến nổi xa giá phiêu giạt ra ngoài, thần dân trong nước không chỗ nương tựa”.



Chính sử triều Lê không chép 2 ông Cảnh Hấp và Đình Ngạn theo vua Anh Tông xiêu giạt vào thành Nghệ An, tức 2 ông vẫn ở lại hành cung Vạn Lại, sử cũng không đề cập đến việc xử án đối với 2 ông, nhưng với đoạn văn: “Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết chết, tướng sĩ các ngươi không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì phải giết cả họ. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động”, đã xác định hai ông không thể thoát chết, nếu 2 ông thoát được thân thì chính sử đã có cơ sở buộc tội 2 ông rõ ràng và chắc chắn hơn.

Cuộc chính biến năm 1572 – 1573, dưới triều Lê trung hưng, vua Anh Tông bị giết, hai nhà quan cận thần gặp nạn tầy đình, rất phù hợp với gia cảnh họ Trần duệ xuất, nguyên tiền tại xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa, phải một cha một con chạy về vùng sâu đất Sơn Nam Hạ (xem sự tích Nguyễn Công Trứ lấn biển, mở đất dưới triều vua Nguyễn) cải họ Cao Công – Cao Cái – Cao Quý Công, và cũng rất phù hợp với Trần Công Ngạn làng Thọ An.



Vấn đề gia phả chép Trần Công Ngạn, chính sử chép Đình Ngạn. Lý giải điều này, theo chính sử thì 2 ông phạm tội tầy đình, là nguyên nhân dẫn đến vua Anh Tông phải bị bức tử. Do đó, các nhà viết sử theo phàm lệ đã có từ trước đã phải tước bỏ quan hàm, tước phẩm, bản quán, họ của các ông. Danh Công Ngạn nơi gia phả Thái Xá, rất có thể nguyên tiền là Đình Ngạn, đến năm lập Phổ lục cải Công Ngạn, do phương danh Quý Công được triều Lê ban cho bậc công thần. Sử thần chép Đình Ngạn là tên húy của ngài vậy.

Đại Việt sử ký toàn thư, từ kỷ Lê Trang Tông đến kỷ Thế Tông (Trung hưng đời thứ 1, đến trung hưng đời thứ 3 (1533 – 1599), có 7 tước hiệu quận công không kèm theo danh tính, bản quán: Hiệp quận công, Tường quận công, Tây quận công, Nghi quận công, Thanh quận công, Lộc quận công, Hoàng quận công. Trong đó, Hiệp, Tường, Tây, Nghi và Thanh quận công được sắc phong năm 1539. Sự khuyết danh tính này là sự cố ý do phàm lệ của các nhà viết sử. Những tước hiệu quận công khuyết danh này, chắc hẵn là của các công thần về sau do gặp nạn chính biến, trong đó có Trần Quý Công – Công Ngạn họ ta. (còn có Nghi quốc công Trịnh Căn 1682-1709).



Thế phổ Nha Chử chép: “Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật thụy viết Phúc Hậu… húy Căn, hậu cải Công Bật tập tước Dự Nghĩa công”. Chữ công đầu thuộc Quý công () , hậu cải công (công việc, công hiệu, công nghiệp), là chi tiết cho thấy nguyên là dòng dõi công thần, khi chạy đến Nha Chử phải che dấu tung tích của mình nên phải cải đổi chữ công. Tất cả các tộc họ có chữ đệm công đều là chữ công .



Với những tư liệu đó, thì việc xác định Trần Công Ngạn nơi thế phổ Thái Xá, chính là Trần Quý Công tự Vô Tâm nơi lời tựa của thế phổ Cao Trần, là quan cận thần Đình Ngạn gặp nạn chính biến năm 1572-1573, là có căn cứ. Nó còn được tự tích Thủy tổ của họ Trần Thanh Châu tại Quảng Nam minh chứng:

Gia phả Thanh Châu ghi: Thủy tổ Tính sơ công Trần Quý Công tự Phúc Thiện thụy Nguyên Trưởng Phủ Quân. Thế tịch nguyên Nghệ An thừa tuyên, Diễn Châu phủ, Đông Thành huyện, Thái Xá xã. Tập hành trạng của Hòa thượng Diệu Nghiêm (1738-1810) hậu duệ đời thứ 8 ghi: “Nhơn kỳ viến tổ tại Đông Kinh, Nghệ An thừa tuyên phủ tòng, Tiên Nguyễn chúa ứng nghĩa nhi lai Việt Nam quốc”. Câu đối về sự Thủy tổ “Bắc địa tòng vương khai thổ võ - Nam thiên lập ấp chiếm thanh nguyên”. Xác định Thủy tổ Phúc Thiện cùng bà Nguyễn Thị Lan nhị nương, thuộc họ Trần Thái Xá, ứng nghĩa vào Nam cùng với đoàn quân của Tướng công Nguyễn Hoàng, ra đi vào Nam từ hành cung vua Lê tại Thanh Hóa năm 1558. Sự nghiệp của người cha trong tự tích “Bắc địa tòng vương khai thổ võ” đồng nghĩa với Nghệ An thừa tuyên phủ tòng, đó chính là sự tích của người cha là Trần Công Ngạn nơi thế phổ Thái Xá, Trần Quý Công tự Vô Tâm nơi lời tựa của Thế phổ Cao Trần, người đã theo vua Trang Tông từ Nghệ An vào khoảng năm 1540, sau đó tiến quân về Thanh Hóa, lập hành cung tại sách Vạn Lại, tức làm quan triều Lê Trung Hưng. Tư liệu Thanh Châu chép khá rõ về bản quán Thái Xá xã thuộc Nghệ An, không có Hán tự Thanh Hóa, nhưng với sự tích Bắc địa tòng vương, và ngài Phúc Thiện vào Nam cùng sự kiện với chúa Nguyễn Hoàng, đương nhiên phải từ hành điện vua Lê tại Thanh Hóa.

(Tích “Nghệ An thừa tuyên phủ tòng”, không thể hiểu là “Nghệ An thừa tuyên phủ”. Bởi vì đã là thừa tuyên thì phải là thừa tuyên đạo, hoặc trấn, lại dưới Nghệ An thừa tuyên đã có Diễn Châu phủ).



Gia phả và mộ ghi chép khá rõ rằng: Thủy tổ Trần Quý Công tự Phúc Thiện thụy Nguyên Trưởng phủ quân. Riêng với tên thụy Nguyên Trưởng phủ quân 元長府君, đối chiếu với Trần Nhất Lang tự Phúc Thiện tại cựu quán Thanh Hóa, chép nơi lời tựa của Thế phổ Cao Trần là trùng khớp (con trưởng của dòng trưởng đích tôn).



Danh tính 5 vị họ Trần, mộ tại cựu quán xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa, được chép nơi lời tựa:

- TRẦN QUÝ CÔNG   tự VÔ TÂM.

- TRẦN NHẤT LANG tự PHÚC THIỆN.

- TRẦN NHỊ LANG     tự PHÚC TÍN.

- TRẦN TAM LANG   tự CHÂN KHÔNG.

- TRẦN QUẾ HOA NƯƠNG.

Thế phổ Cao Trần chép bà Hoàng Thị Nhất Nương hiệu TỪ TÍN, là chánh thất của ngài Cao Cái – Cao Quý Công - Vô Ý Công tướng công Thủy tổ sáng nghiệp dòng Cao Trần. Theo chúng tôi, tên hiệu của bà là Từ Tín, có nghĩa là Mẹ Tín, cùng tên với Trần Nhị Lang tự Phúc Tín, chính là ngài Cao Cái – Vô Ý Công tướng công. Bởi dòng họ gặp nạn, phải thay tên đổi họ nhằm che dấu tung tích, sống ẩn nơi xứ khác, nên việc ghi chép có nhiều uẩn khúc là lẽ thường tình.



Đối với cô tổ Trần Quế Hoa Nương, thế phổ Thái Xá chép: Tổ Trần Chân Tịch và bà Hoàng Thị Tâm. Giỗ ông ngày 23 tháng 8 âm lịch, cúng hợp kỵ ngày 27/03.

Lăng mộ ông bà Chân Tịch tại Bảo Tháp, xã Diến Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Ông bà sinh hạ được 4 con trai, được mấy con gái không rõ nhưng cả dòng họ Chân Tịch thờ cô tổ Quế Hoa Nương”

Như vậy, thế phổ Nha Chử và Thái Xá cùng chép cô tổ Trần Quế Hoa Nương. Cô tổ Quế Hoa Nương được cả dòng trưởng Chân Tịch phụng thờ, có thể hiểu Quế Hoa Nương là tên hiệu của bậc nữ tu, là chị hoặc em gái của tổ Trần Công Ngạn trưởng tử đích tôn. Tổ cô có công lớn giúp con cháu Trần Công Ngạn một số đã chạy thoát thân năm gặp nạn, nên được các chi thuộc dòng Trưởng họ Trần Thái Xá phụng thờ.



Với cách ghi chép thì Nhất lang, Nhị lang và Tam lang họ Trần nơi thế phổ Nha Chử là 3 anh em ruột, rất dễ ngộ nhận với 3 anh em ruột đời trên là: Chân Tịch, Chân Tính, Chân Thiên tại Thái Xá, hay Công Sủng, Đạo Tín, Thiện Tính tại Tống Sơn. Nhưng với các tên tự Phúc Thiện (Thanh Châu đang nhìn nhận là Thủy tổ), Phúc Tín sinh hạ Công Bật thụy viết Phúc Hậu, là dấu hiệu việc lập tộc Trần Phúc tại Thanh Hóa, lấy chữ Phúc trong tên húy Phúc Quảng của tổ Chân Tịch dòng trưởng của ông bà Chân Thường làm tộc hiệu. Trần Tam Lang tự Chân Không, nếu căn cứ nghĩa của Hán tự Chân Không thì có thể tổ Tam lang đến đây không có con trai, tức vô tự nên không chép tên hiệu có chữ Phúc.



Về hành trạng của ông bà Chân Thường, được các thế phổ Nghệ An ghi chép khá rõ. Ngài là người con trai thứ 3, được người cha huề vào đất Nghệ An, đến tuổi trưởng thành phối bà Lê Thị Từ Phúc (hiệu ông bà Chân Thường), sinh hạ đắc tam nam. Cả cuộc đời tuân hành nội đạo theo dấu chân người cha những năm trí sĩ nơi chùa Phì Cam. Do đó , ngài không tham gia chính sự, mà là bậc chân tu qua tên hiệu Chân Thường. Ngài có bài thơ thất ngôn bát cú, đầy lạc quan về đường hậu duệ, mộ phần ông bà được hậu thế chăm nom và bảo tồn cho đến ngày nay tại Nghệ An, kể cả cảo huyệt. Nên gia phả Nghệ An không thấy chép Trần Tam Lang tự Thiện Tính là Trần Quý Công, và với một nhà tu hành chân chính không thể có tên tự là Vô Tâm.

Cuộc chính biến tại hành cung Vạn Lại năm 1572 – 1573, theo nghiên cứu chính sử thời Nguyễn Sơ, thì có ít nhất 2 vị quan nhà Lê quy vu Nam thổ, đó là: “Trương Công Gia - Điện tiền Đô kiểm điểm Lương quận công đời Lê. Lúc Thái tổ hoàng đế vào Thuận Hóa, đã đem gia quyến đi theo. Đại Việt sử ký toàn thư, từ năm 1570 đến 1574, có 4 lần chép Lương quận công, nhưng không nêu danh tính. Năm 1571, ghi “Lương quận công được thăng Thiếu phó” . Năm 1574, ghi “Bấy giờ Tiết chế Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền trong ngoài. Bọn Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách và Lương quận công ngầm mưu sát hại. Việc tiết lộ, đều bị bắt hạ ngục để xử tội. Bà phi của Thái vương là Nguyễn thị (Mẹ của Tiết chế Trịnh Tùng) ra sức cứu gỡ mới được khỏi tội, nhưng bị tước quyền.

Lương Văn Chính: người huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Lúc trước Văn Chính làm quan nhà Lê đến chức Thiên vũ Vệ đô chỉ huy sứ. Theo Thái tổ vào Nam. Khoảng năm Mậu Dần (1578), người Chiêm Thành đến lấn cướp, Chính tiến quân đến sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ Thành. Vì có quân công, thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, tước Phú Nghĩa hầu”.

Và rất có thể còn nhiều dòng họ khác nữa đã vào Nam với chúa Nguyễn Hoàng, do sự phân hóa phe phái nơi hành điện vua Lê chúa Trịnh, hoặc họ Mạc. Nên  Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, quyển 5: Nhân tài và văn thơ, đã chép: “ …. Đoan quốc công vào trấn, đời sau nối nhau giữ việc quân, truyền tập riêng nhau, tự đặt quan lại, do đó nhân sĩ châu Ô, châu Lý, không ai là không theo thời thế mà lập công danh, mà những người bộ khúc 步曲 họ Nguyễn mang theo, phần nhiều là người Thanh Nghệ, kiều cư ngụ quán, con cháu họ có tài nghệ kiến thức, hoặc do tập ấm mà tiến lên, hoặc do thi cử mà bổ dụng, cũng lại không ít”



Đầu mối Trần Phúc Thiện và Trần Công Ngạn như đã trình bày, hoàn toàn trùng khớp với thế phổ họ Nguyễn chúa, có cùng thời mốc và sự kiện lịch sử:



THẾ PHỔ HỌ NGUYỄN
THẾ PHỔ HỌ TRẦN
Nguyễn Công Duẫn – Phụng thần vệ tướng quân Gia Đình hầu, tặng Thái bảo Hoành quốc công (có công đánh dẹp quân Minh, đời Lê Lợi)
Tư đồ Thái úy Tả tướng quốc
Trần Nguyên Hãn.
Nguyễn Đức Trung – Điện tiền chỉ huy sứ Đô đốc Trinh quốc công, tặng Thái úy
(con gái làm tiệp dư của vua Thánh Tông, sinh ra vua Lê Hiến Tông)

Thiết chế Tướng Công
Trần Pháp Độ.
Nguyễn Văn Lãng (Lang) – Thủy quân vệ chỉ huy sứ, phong Thái úy Nghĩa quốc công bình chương quân quốc trọng sự, tặng Nghĩa Huân vương.

Trần Thiện Tính hiệu Chân Thường.

Nguyễn Hoằng Dụ - Đô đốc An Hòa hầu
Trần Chân Tịch hiệu Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng.
Nguyễn Kim – Hữu vệ tướng quân An Thành hầu, được phong Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công Chưởng nội ngoại sự.

Trần Quý Công - Công Ngạn.
Nguyễn Hoàng – Đoan quốc công, Chúa Tiên
Trần Quý Công – tự Phúc Thiện,
Nguyên Trưởng phủ quân.



Năm 1573, Tướng công Phúc Tín cùng người con trai thoát thân đi về đất Sơn Nam Hạ, thuộc quyền cai quản của họ Mạc, nhưng không quy thuận họ Mạc để hưởng vinh hoa, phú quý. Chứng tỏ ông vẫn trung thành với nhà Lê, sự kiện vua Lê Anh Tông bị hại, gia đình ông không cố tâm, cố ý, thông qua 2 tên tự Vô Tâm, Vô Ý.

Việc cải họ thay tên đổi họ, lập nghiệp nơi đất nhà Mạc, có lẽ là việc làm không mấy khó khăn.



LỜI KẾT:

Thế phổ Thái Xá chép: Trưởng tử Đích tôn Trần Công Ngạn sinh vào khoảng năm 1511, làng Thọ An, chính là Trần Quý Công tự Vô Tâm nơi lời tựa của Thế phổ Cao Trần, là thân phụ của Nguyên trưởng Phủ Quân Trần Quý Công tự Phúc Thiện - Thủy tổ Thanh Châu tộc, đứng đầu hàng Tiền hiền Thanh Châu thôn sau này.

Năm 1540, quân vua Lê từ nước Lào, về đánh Nghệ An, năm đó tổ Trần Công Ngạn độ 30 tuổi.

(Canh Tý, Nguyên Hòa năm thứ 8 (1540), Mùa xuân tháng giêng, ngày 15 Mạc Đăng Doanh chết, con Mạc Phúc Hải lên ngôi. Tháng 11, Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An, hào kiệt phần nhiều theo về, thanh thế rất lừng lẫy, đến đâu là gần xa đều hàng phục).



Đến năm 1573, bị triều thần hãm hại tại hành điện Thanh Hóa, ông ở tuổi độ 63.



Hồng phúc thay dòng Trần Thái Xá, trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, đến nay hậu duệ vẫn còn lưu giữ được những di tích của các đời Tiên hiền nơi đất Nghệ An, với gần chục tập gia phả Hán tự, cảo huyệt, phần mộ và tự tích. Các chi hậu duệ nơi đất Thanh Châu, Nha Chử gặp phải nạn lớn, nhưng vẫn lưu giữ được những tư liệu vô cùng quý hiếm. Cái khó nhất là việc dịch thuật các Hán tự điển tích, nhưng nhờ nguồn chính sử nước nhà vẫn còn lưu truyền và được Nhà nước dịch thuật, ban hành rộng rãi, đã giúp cho hậu thế hôm nay mò mẫn tìm hiểu, đối chiếu, giải mã những uẩn khúc nơi gia phả.

Đối với hậu duệ Thanh Châu đến nay đã truyền hạ trên 17 đời, nhưng hiện tại đời thứ 13 còn có 4 cụ, tuổi đời thấp nhất là 58 tuổi, rất phù hợp với thời gian sinh hạ trong những thế kỷ trước. Do đó, biên bản nhìn nhận anh em giữa các vị lão tộc Thanh Châu và chi họ Đông Lũy vào trước năm 2.000, xác nhận Thủy tổ Phúc Thiện là Phúc Thiện hậu duệ 5 đời của tổ Chân Tâm, hoặc tổ Phúc Thiện hậu duệ 5 đời của tổ Phúc Thọ (các tổ Phúc Thọ, Chân Tâm và Danh Di, đều là em trai của tổ Công Ngạn), chỉ đúng với dòng họ Trần Thái Xá, nhưng không phù hợp với thế phổ, và các di tích mộ cổ dưới thời chúa Nguyễn của Thanh Châu.

Nay qua hội thảo này, chi họ Cổ Tháp trực thuộc Thanh Châu xin được cải chính. Có vậy, công đức của các ngài Trần Công Ngạn, của Phúc Thiện, Phúc Tín, ...  mới được sáng tỏ, góp phần làm rạng danh tông tổ dòng Pháp Độ công Thái Xá.

Đối với Nha Chử, với tự tích nơi câu đối, lời tựa và 3 đời đầu của thế phổ thì đã quá rõ, không còn gì phải bàn. Nhưng với những đời tổ có chép năm sinh nơi thế phổ, và mốc thời gian năm Quý Hợi 1683, thì còn có chỗ bất cập. Hy vọng trong  chi họ Cao Trần sẽ tìm được lời giải thích thỏa đáng.

Công đức của tiên tổ Thanh Châu được khái quát khá rõ nơi văn tế: “Triệu bồi di tích tử tôn sáng tạo toàn bằng tông tổ. Khái tưởng tiền nhân công liệt đổng trí sơn hải”, và Thanh Châu thôn dưới thời chúa Nguyễn là Nội phủ Thanh Châu, nay vẫn còn một số di tích mộ cổ và mộ chí. Có thể nói đã không phụ lòng các đời Tiên hiền nơi đất Nghệ An – Thanh Hóa.



Quảng Nam, ngày 16/03/2013.

 Hiệu đính, ngày 27/11/213

 Biên soạn:  TRẦN PHƯỚC BÌNH.   
 
*** Phụ lục câu đối của hai chi họ Nha Chử và Thanh Châu:


THÁI TỔ NHA CHỬ


THỦY TỔ THANH CHÂU
  
   
   
   
   
   
   
  
   
   
   
   
   
   




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét