Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

TÓM TẮT THÂN THẾ SỰ NGHIỆP TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN

Đức Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn sinh vào thời kỳ đất nước có nhiều biến động ở cuối thế kỷ XIV. Nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly rắp tâm thoán đoạt ngôi vua, đã thẳng tay giết hại tôn tộc nhà Trần. Trước họa tru diệt huyết thống đó, năm Ất Sửu (1385), Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, lúc này về trí sĩ tại Côn Sơn (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), phải cho con trai là Trần Án cùng con dâu Lê Thị Hoàn đang mang thai được ba tháng từ Chí Linh lên làng Quan Tử, [1] trang Sơn Đông, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây – nay là xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc - để lánh nạn. Cùng đi, có một vị tướng già tâm phúc của gia đình cụ Trần Nguyên Đán ủy thác giúp đỡ.   
Theo gia phả họ Đào Trần Minh Nông, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Đức Tổ Trần Nguyên Hãn sinh ngày mồng Một tháng Hai năm Bính Dần (1386). Ông là cháu nội Chương Túc Quốc Thượng hầu Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán [2] và là cháu sáu đời Chiêu Minh đại vương Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải,[3] dòng dõi vua Trần Thái Tông. Chẳng bao lâu, cụ Trần Án lại bị người của Hồ Quý Ly giết hại. Bà Hoàn một mình tần tảo nuôi dạy con nhỏ.
Trần Nguyên Hãn lên 7 tuổi được bà cho đi học. Ông học cả văn lẫn võ.
Năm 16 tuổi, Trần Nguyên Hãn đã học hết tứ thư ngũ kinh và các sách binh thư. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần.
Năm 1407, giặc Minh dương chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” đưa quân sang xâm lược nước ta. Chúng áp bức, giết hại dân ta vô cùng tàn bạo. Trần Nguyên Hãn bầm gan tím ruột, ra sức luyện tập võ nghệ, nghiền ngẫm binh thư, nuôi chí cứu nước giúp dân.
          Tháng Hai năm Canh Dần (1410), ông bí mật chiêu tập thanh niên trai tráng trong vùng tổ chức luyện quân, lập căn cứ tại rừng Thần, ao Tó, đầm Trạch (nay gọi là đầm Đa Mang) thuộc hai xã Sơn Đông, Văn Quán để chờ thời cơ đánh giặc cứu nước.
          Trong một trận giặc càn vào làng, chúng bắt bà Lê Thị Hoàn và nhiều người khác đem giết. Ông đã cùng vị tướng già cải trang, đột nhập vào giết chết tên huyện quan tay sai chỉ điểm Trần Thiêm Ích ngay tại nhà hắn.
          Sau đó, ông cùng nghĩa quân rừng Thần đánh diệt thành Tam Giang, làm chủ cả vùng Bạch Hạc khiến quân Minh phải kinh hồn bạt vía, tiếng tăm nghĩa quân lừng lẫy khắp vùng.
Cuối năm Ất Mùi (1415), Trần Nguyên Hãn cùng Nguyễn Trãi trốn vào Thanh Hóa tìm gặp Lê Lợi (tại Lỗi Giang - núi Điều - Lam Sơn, Thanh Hóa). Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô sách”. Lê Lợi mừng rỡ đón nhận, phong ông làm Hàn lâm thừa chỉ học sĩ [4] coi việc soạn thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự Bộ tham mưu. Trần Nguyên Hãn xin về quê dẫn quân vào gia nhập nghĩa quân Lam Sơn.
          Gần tết năm Mậu Tuất (1418), Trần Nguyên Hãn đem hai trăm quân tinh nhuệ của nghĩa quân rừng Thần cùng hơn một trăm ngựa chiến vào tụ nghĩa. Trần Nguyên Hãn đã dâng Lê Lợi thanh bảo kiếm của Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải để tỏ rõ một lòng một dạ phò Lê Lợi làm minh chủ. Vốn đã biết tiếng về Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi xếp ông vào Bộ tham mưu, nằm trong bộ tứ của cuộc khởi nghĩa [5] và giao cho ông việc rèn luyện nghĩa quân.
Ngày mồng 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (07-2-1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định vương.
Từ năm 1418 đến năm 1423, nghĩa quân thường xuyên bị giặc Minh tiến đánh vây hãm, phải ba lần rút lên núi Chí Linh, gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ. Ông dốc lòng phò Lê Lợi, lập nhiều chiến công, được Lê Lợi phong chức Tư đồ là chức quan cao nhất lúc bấy giờ.[6]
          Ngày 20 tháng 9 năm Giáp Thìn (12-10-1424), theo đề xuất của tướng Nguyễn Chích, Lê Lợi chuyển quân vào xây dựng căn cứ địa mới ở Nghệ An. Trần Nguyên Hãn được giao đánh trận mở đầu, diệt đồn Đa Căng (Bất Căng, xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa  ngày nay)[7] để mở đường cho nghĩa quân. Ông đã tiến hành một trận tập kích bất ngờ, giải quyết nhanh gọn chiến trường tạo điều kiện cho nghĩa quân tiến quân thuận lợi.
 Tháng 7 năm Ất Tỵ (tháng 8-1425), nghĩa quân bao vây các thành Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, mở rộng vùng giải phóng thuộc hai tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa. Theo đề xuất của Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi giao cho ông cùng Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ và tướng Đinh Đàm dẫn một nghìn quân và một voi chiến vào mở vùng Tân Bình-Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay).[8]
 Với số quân ít ỏi, ông đã mưu trí tổ chức một trận mai phục nhử địch tại bến Hà Khương (phía Tây sông Gianh ngày nay), tiêu diệt đạo quân Minh do tướng Nhậm Năng chỉ huy đang đi chặn đánh nghĩa quân. Tiếp đó, cùng với 70 chiến thuyền chở quân mới được điều đến, ông điều đi giải phóng các châu huyện. Chỉ trong khoảng nửa năm, ông đã chỉ huy giải phóng toàn bộ vùng Tân Bình –Thuận Hóa. Hơn hai vạn trai tráng đã tình nguyện gia nhập nghĩa quân, được huấn luyện thành quân tinh nhuệ. Từ đó, thế và lực của nghĩa quân Lam Sơn ngày một lớn, khiến giặc Minh càng lâm vào thế bị động.

       Tháng 4 năm Bính Ngọ (tháng 5-1426), vua Minh cử Thái tử Thái bảo Thành Sơn hầu Vương Thông giữ chức Tổng binh, đem 5 vạn quân, 5 nghìn ngựa sang tăng viện đến thành Đông Quan. Chúng tổ chức phản công đánh ra vùng căn cứ của nghĩa quân nhưng bị thiệt hại nặng. Nghĩa quân chuyển sang tấn công. Trong trận đánh vây hãm thành Đông Quan, Trần Nguyên Hãn được cử thống lĩnh lực lượng thủy binh đánh vào phía Đông thành, phối hợp với đạo quân chủ lực do Lê Lợi trực tiếp chỉ huy ở phía Nam và cánh quân do Đinh Lễ chỉ huy ở phía Tây.
Ngày 23 tháng 10 năm Bính Ngọ (22-11-1426), ông cùng tướng Bùi Bị dẫn hơn 100 chiến thuyền từ sông Lung Giang (sông Đáy) tiến về Đông Bộ Đầu (dốc Hàng Than ngày nay) đánh tan đội thủy quân địch, bắt hơn 100 chiến thuyền giặc, cắt đứt cầu nối Hà Nội - Gia Lâm, đồng thời phối hợp đập tan đạo quân của tướng Phương Chính bảo vệ vòng ngoài thành Đông Quan. Vương Thông phải rút vào cố thủ trong thành Đông Quan, xin vua Minh cho quân ứng cứu. Sau trận này ông được phong Thái úy là chức quan cao nhất trong hàng ngũ tướng lĩnh.

Ngày 26 tháng chạp năm Bính Ngọ (31-01-1427), vua Minh quyết định điều 15 vạn quân, 3 vạn ngựa chia làm hai đạo quân sang ứng cứu Vương Thông, giải vây thành Đông Quan.
 Đạo thứ nhất gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa do Thái tử Thái bảo An Viễn hầu Liễu Thăng làm Tổng binh, tiến theo đường Quảng Tây- Lạng Sơn.
          Đạo thứ hai gồm 5 vạn quân, một vạn ngựa do Thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh làm Tổng binh, tiến theo đường Vân Nam- Tuyên Quang.
          Để đối phó với viện binh của quân Minh, Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định phải nhanh chóng đánh chiếm các thành của địch nằm trên trục đường tiến quân của quân Minh, trong đó thành Xương Giang là một cứ điểm trọng yếu nhất (thành Xương Giang thuộc làng Đông Nhan, xã Thọ Xương, nay là xã Xương Giang thành phố Bắc Giang).
 Từ tháng 12 năm Bính Ngọ (cuối năm 1426), Lê Lợi đã phái nhiều tướng đi đánh thành Xương Giang[9]. Trải qua 9 tháng vây hãm nhưng thành vẫn chưa được hạ.
          Tháng 9 năm 1427, được tin viện binh địch đã đến gần, Lê Lợi giao cho  Trần Nguyên Hãn lên trực tiếp chỉ huy, với quyết tâm phải hạ được thành Xương Giang trước khi viện binh Liễu Thăng kéo đến. Ông cho đào công sự từ các khu rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành và huy động dân chúng giúp đỡ nghĩa quân.
          Đêm mồng 8 tháng 9 năm Đinh Mùi (28-9-1427), trận đánh do ông chỉ huy với kế hoạch thần diệu, mở cuộc tấn công tổng lực, phối hợp các loại lực lượng, nội công ngoại kích, bốn mặt cùng đánh. Trận đánh diễn ra chưa đầy một canh giờ (hai tiếng đồng hồ ngày nay). Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Hai tướng giữ thành là Lý Nhậm và Kim Dận phải nhảy xuống thành tự tử.
          Thành Xương Giang bị hạ trước khi Liễu Thăng kéo quân tới biên giới Việt- Trung đúng 10 ngày. Được tin thắng trận, Lê Lợi đã vui mừng thốt lên với lời cảm phục: “Đại Tư đồ Trần Nguyên Hãn đã không phụ lòng ta. Tài cầm quân của Đại Tư đồ quả là bản triều không ai sánh được. Ta không ngờ thắng nhanh đến thế!
  Lê Lợi họp các tướng lĩnh, giao cho Trần Nguyên Hãn và Lê Sát dẫn quân lên biên giới tổ chức đánh viện binh Liễu Thăng.
 Với chức vị Thái úy, ông là tướng đầu triều ở chiến trường. Ông trực tiếp lên bố trí trận địa và vạch phương án phối hợp chiến đấu với các cánh quân để tiêu diệt địch.
          Ngày 18 tháng 9 năm Đinh Mùi (08-10-1427), Liễu Thăng tiến đánh ải Pha Lũy (Mục Nam Quan ngày nay). Tướng giữ ải Trần Lựu ra đánh nhưng giả thua lui quân về giữ ải Chi Lăng.
           Ngày 20 tháng 9 (10-10-1427), Liễu Thăng tự mình đốc thúc đạo quân tiên phong tiến đánh ải Chi Lăng. Hai đạo quân của Trần Nguyên Hãn và Lê Sát cùng tướng Trần Lựu hợp đánh, chém được đầu Liễu Thăng tại núi Mã Yên, tiêu diệt gần một vạn tên giặc.[10]
          Ngày 25 tháng 9 (15-10-1427), địch tiến đến Cần Trạm (khu vực thị trấn Kép - xã Hùng Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang ngày nay), nghĩa quân tiêu diệt gần hai vạn tên, Phó Tổng binh Lương Minh thay Liễu Thăng bị giết tại trận.
          Ngày 28 tháng 9 (18-10-1427), chúng tiến đến Phố Cát (khu vực thị trấn Vôi - xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang ngày nay), lại bị nghĩa quân đánh giết trên một nghìn tên. Thượng thư Lý Khánh uất ức thắt cổ tự vẫn.
Còn lại hai tên chỉ huy là Thôi Tụ, Hoàng Phúc dẫn quân cố chạy về Xương Giang, nhưng thành đã bị nghĩa quân chiếm từ trước, chúng đành phải co cụm lại giữa cánh đồng đắp lũy để tự vệ. Giặc bị ta bao vây bốn phía. Trần Nguyên Hãn được giao trọng trách đánh mặt sau,[11] chặt đường rút lui và triệt đường tải lương của chúng. Địch bị vây khốn, chúng phải giết cả ngựa để ăn.
          Ngày 15 tháng 10 năm Đinh Mùi (03-11-1427), nghĩa quân Lam Sơn tổng công kích. Địch bị chém 5 vạn tên, 2 vạn tên đầu hàng. Thôi Tụ, Hoàng Phúc bị bắt tại trận cùng với hơn 300 tướng lĩnh lớn nhỏ.
Trên hướng Vân Nam - Tuyên Quang, Lê Lợi cho mang sắc thư, ấn tín của Liễu Thăng đưa đến chỗ Mộc Thạnh. Bọn Thạnh hoảng sợ, đang đêm ra lệnh rút chạy, nhưng đã bị phục binh của quân ta chặn đánh ở Lãnh Câu, Đan Xá (gần cửa ải Lê Hoa) chém hơn một vạn tên, bắt hơn một nghìn tù binh và hơn một nghìn ngựa, còn lại chết đuối nhiều vô kể. Mộc Thạnh chỉ một mình một ngựa chạy thoát về Vân Nam.[12]
Như vậy không đầy 27 ngày, từ 08-10 đến 03-11-1427, cả hai đạo quân viện binh của nhà Minh bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn.

Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang là đòn quyết định cuối cùng đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của giặc Minh. Trần Nguyên Hãn là người có công rất lớn trong việc đánh chiếm thành Xương Giang và tổ chức chiến đấu tiêu diệt đạo quân 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy, tạo thế đập tan hoàn toàn lực lượng viện binh 15 vạn quân của nhà Minh.
Vương Thông thấy không còn con đường nào khác, đành phải chấp nhận giảng hòa (thực chất là đầu hàng). Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (16-12-1427), hai bên tổ chức hội thề ở phía Nam thành Đông Quan trên gò Nam Phụ (ở phố Thợ Nhuộm đối diện với di tích nhà tù Hỏa Lò ngày nay).[13]  
Phía quân Minh gồm 17 người do Tổng binh Vương Thông đứng đầu.
Phía nghĩa quân Lam Sơn gồm 14 người do Lê Lợi dẫn đầu,[14] Trần Nguyên Hãn đứng ở vị trí thứ 2 sau chủ soái Lê Lợi.
Ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Mùi (29-12-1427), quân Minh bắt đầu rút quân, đến ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi (03-01-1428), tên lính cuối cùng của đạo quân xâm lược cuốn gói ra khỏi biên giới nước ta.
           Ngày 18 tháng Ba năm Mậu Thân (23-3-1428), đại hội các tướng lĩnh và các quan văn võ định công ban thưởng. Trần Nguyên Hãn được gia phong “Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Khu mật đại sứ, được cấp 114 mẫu ruộng.[15]
            Vốn là người có tầm nhìn rộng lớn và hiểu biết sâu sắc, nên chỉ ít lâu sau khi nhận chức Tả tướng quốc, cuối năm 1428,[16] Ông xin từ chức về nghỉ tại quê nhà. Vua Lê Lợi chuẩn y cho về, nhưng dặn cứ một năm hai lần lại vào chầu.
Về quê nhà sau mười năm chinh chiến, Ông làm nhà mới vì nhà cũ đã quá tồi tàn, đóng thuyền mới để hưởng thú vui cùng quê hương vì làng Sơn Đông ở ngay ven sông. Bọn gian thần Trịnh Hoành Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản vốn muốn hãm hại ông bèn đặt điều vu cáo, nói “Ông xây phủ đệ lớn, đóng thuyền to, tuyển tráng binh, chở binh khí, luyện tập thủy quân vv… để làm phản”.
Ngày 26 tháng Hai năm Kỷ Dậu (30-3-1429), vua Lê Lợi sai 42 lực sĩ xá nhân đi bắt Trần Nguyên Hãn về triều hỏi tội. Trên đường về Thăng Long, thuyền vừa đến bến Đông Hồ trên dòng sông Lô, ông ngửa mặt lên trời khấn rằng:[17] “Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước cứu dân. Nay sự nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm pha mà hại tôi. Xin Hoàng thiên biết cho!” rồi ông tự trầm mình.
          Sử làng Sơn Đông có ghi lại rằng: “…Gia nhân và lính hầu của nhà ông Hãn đông và nhiều người giỏi võ nghệ, họ rất tức tối và khuyên ông chống lại lệnh vua. Nhưng ông nói: “…việc lớn đã thành, vua muốn giết ta. Ta không thể sống được với nhà vua, nhưng ta ra mặt chống lại, nhà vua sẽ viện cớ đó tàn sát giết hại hết con cháu họ Trần. Nay chỉ để mình ta và gia quyến chịu chết là hơn”.

26 năm sau, năm Diên Ninh thứ 2 (1455), vua Lê Nhân Tông (1443–1459) xuống chiếu minh oan cho ông,[18] ra lệnh phục chức, truy phong ông là “Phúc thần”, cho gọi con cháu ra làm quan nhưng không ai ra. Nhân dân tôn phong ông hiệu Khai quốc nguyên huân”.
 Đời nhà Mạc (1527-1593), ông được truy phong là “Tả tướng quốc Trung liệt đại vương”.
Đời nhà Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), triều đình ban sắc phong cho ông là “Tuần hương lương trực Tả tướng quốc Trần phủ quân chi thần”.
 Sau khi được vua Lê Nhân Tông xuống chiếu minh oan, nhân dân đã xây đền thờ ông ngay trên nền nhà cũ của ông (nay thuộc thôn Đa Cai, xã Sơn Đông) gọi là “Đền Trần Tả tướng”, còn có tên là “Đền Quốc công”. Ngoài ra còn có đền thờ ông ở thôn Đức Lễ, xã Văn Quán, nơi có căn cứ  Rừng Thần cũ; ở làng Phan Lãng, xã Cao Phong, nơi lập trang trại đầu tiên của gia đình ông và ở núi Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương trong cụm di tích đền thờ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Tại Chi Lăng, nhân dân tỉnh Lạng Sơn cũng lập Viện bảo tàng Trần Nguyên Hãn. Ở thành phố Hồ Chí Minh có tượng đài Trần Nguyên Hãn.
 Ở đền Trần Tả tướng, có đôi câu đối:
                      “Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa
              Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên”
Có nghĩa là:
“Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này
Lòng trung quân của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời biết”.
       Ngày 15-01-1984, Bộ Văn hóa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định số 06/VH-QĐ, xếp hạng di tích lịch sử đền thờ Trần Tả tướng tại xã Sơn Đông để bảo tồn lâu dài.
Năm 2010, Nhà nước đã đầu tư lớn để tôn tạo, nâng cấp khu đền thờ Trần Tả tướng. Sau hơn một năm tôn tạo, đền thờ Trần Tả tướng đã được khang trang, đẹp đẽ như ngày hôm nay.
 Hội thảo về thân thế, sự nghiệp Đức Tổ Trần Nguyên Hãn tại huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú năm 1988 đã kết luận: “Ông Trần Nguyên Hãn là một nhà yêu nước nồng nàn, sáng suốt, thức thời, biết gắn quyền lợi của tông tộc với quyền lợi của dân tộc trong thời đại mà đất nước lâm nguy trước nạn ngoại xâm.
 Lòng yêu nước, đức nhân ái, vị tha, sự nghiệp quân sự tài ba xuất sắc, nghệ thuật quân sự tài tình đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, góp phần quyết định của cuộc giải phóng dân tộc, khôi phục giang sơn. Tất cả những cái đó đã qui định nên danh hiệu Anh hùng dân tộc của ông mà nhân dân tôn thờ, Tổ quốc ghi công”.
Hội thảo một lần nữa tôn vinh: “Trần Nguyên Hãn, thế kỷ XV - một Anh hùng dân tộc!”
        Đức Tổ Trần Nguyên Hãn là một người văn võ song toàn, đức tài trọn vẹn.
Các thế hệ con cháu chúng ta tự hào có Đức Tổ Trần Nguyên Hãn. Chúng ta nguyện sống xứng đáng là con cháu hậu duệ của Người./.

                                                                               BAN LIÊN LẠC
                                                         DÒNG HỌ TRẦN NGUYÊN HÃN VIỆT NAM
                                                                       Chủ biên: Đào Trần Quang Cát.

[1] Làng Quan Tử tên gốc là làng Gốm, vốn là nơi danh thần Trần Khắc Chung đã về đây mở trường dạy học. Riêng làng này có 12 người đỗ tiến sĩ. Các gia đình trong làng hầu hết là con cháu nhà quan nên có tên là làng Quan Tử.
[2] Sách “Nguyễn Trãi và bản hùng ca đại cáo”- Bùi Văn Nguyên, Nhà xuất bản khoa học xã hội – 1999, trang 120: “Ông Trần Án là con trai thứ 6 của Băng Hồ tướng công, gọi bà Trần Thị Thái bằng chị, (Trần Thúc Quỳnh là anh). Theo Nguyễn Trãi viết trong “Băng Hồ di sự lục” thì cụ Trần Nguyên Đán có 11 người con, sau loạn lạc không mấy người còn.                                 
[3] Có sách viết: Trần Nguyên Hãn là con Trần Thuần Đức (theo giả thuyết Trần Thuần Đức đổi tên là Trần Án) nên tính là cháu bảy đời Đức Tổ Trần Quang Khải. Thế nhưng theo Trần gia ngọc phả lưu trữ tại Viện Hán Nôm ký hiệu A 2046 thì An Viễn tướng quân Trần Thúc Quỳnh có con là Công Thiên - Trần Thuần Đức (hiện nay là tổ của một dòng họ ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội). Trần gia ngọc phả viết: Trần Thuần Đức sinh ra Trần Chính Trực, Trần Chính Trực sinh ra Trần Chính Đạo… tiếp nối 19 đời không có ai là Trần Nguyên Hãn.
           [4] Sách Lam Sơn thực lục trang 48 viết: “Nhà vua từ khi khởi nghĩa,… bao nhiêu giấy tờ đi lại ở trong quân, đều sai văn thần Nguyễn Trãi làm ra”.
[5] Bốn vị tướng được coi là “tứ trụ phù Lê” gồm: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Lê Văn Linh. (Trần Nguyên Hãn, Quỳnh Cư - Những Vì sao đất nước, tập II, trang 68).
[6] Đại Việt thông sử -Lê Quý Đôn viết: “Vua cũng biết được tài thao lược của ông, đãi ngộ ông rất hậu, cho được dự bàn mưu kín, ông theo đi đánh giặc luôn lập công, được lên chức Tư đồ.”
[7] Trần Nguyên Hãn, Sở Văn hóa, thông tin và thể thao Vĩnh Phú xuất bản năm 1991, trang 149.
 - “Trẫn Nguyên Hãn, một vị tướng tài xuất sắc của nghĩa quân Lam Sơn” - Giáo sư sử học Văn Tân- Tạp chí Lịch sử quân sự tháng 5/89, trang 47.
[8] Danh tướng Việt Nam- Nguyễn Khắc Thuần - Nhà xuất bản giáo dục, Trần Nguyên Hãn, trang 32.
           [9] Các tướng Lê Sát, Lê Triện, Nguyễn Đình Lý, Lê Thụ, Lê Lãnh.
       [10] Đại Việt thông sử, trang 166.
       [11] Đại Việt thông sử, quyển 1, liệt truyện đệ 2, Trần Nguyên Hãn, trang 233.
  Trần Nguyên Hãn, Sở Văn hóa thông tin và thể thao Vĩnh Phú, 1991, trang 68.
[12] Khởi nghĩa Lam Sơn - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1977, trang 455.
[13] Tạp chí Lịch sử quân sự tháng 5/89 số 41 “Tổ tiên ta đánh giặc” trang 48.
“Nguyễn Trãi và bản hùng ca đại cáo’- Bùi Văn Nguyên, nxb KHXH, 1999, tr.259.
[14] Phái đoàn của nghĩa quân gồm 14 người: Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Lê Vấn, Lê Ngân, Phạm Văn Xảo, Bùi Bị, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Nguyễn Lý, Phạm Bôi, Lê Văn An, Bế Khắc Thiệu, Ma Luân.
[15] Lê triều thông sử - Lê Quí Đôn.
[16] Có sách nói năm 1429.
[17] Lê triều thông sử - Lê Quí Đôn. Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú.
[18] Có sách nói năm 1454.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét