Lời biên tập
viên
Theo Gia phả Dòng Trần Nguyên Hãn: ...”Trong
thời gian tổ Trần Nguyên Hãn bị hàm oan, Trần Quốc Duy cùng với mẹ bị triều
đình Lê Lợi bắt đem về quản thúc tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội). Đời vua Lê
Nhân Tông (cháu Lê Lợi), niên hiệu Diên Ninh thứ nhất (1454), đã đại xá, minh
oan cho Trần Nguyên Hãn và tha cho vợ con ông. Trần Quốc Duy được vua mời ra
làm quan với chức Tiết Chế Lễ Tướng Công. Khi về hưu, ông đưa vợ và 3 người con
vào Tống Sơn Thanh Hoá (nay là vùng huyện Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc). Sau mấy
năm, ông để vợ và người con thứ hai là Trần Đạo Tín ở lại tại đó (Tống Sơn),
còn ông và hai con là Trần Công Sủng và Trần Thiện Tính (Chân Thường) đi vào xứ
Cồn Dù, thôn Phú Hữu (nay là xã Nhân Thành huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An) tìm đến
nhà ông Hoàng Đỉnh là cháu nhiều đời của tướng Yết Kiêu, một gia tướng của nhà
Trần để nhờ nơi nương tựa. Sau
ông lại dời chỗ ở lần nữa, đến chùa Liên Hoa làng Phì Cam (nay là xã Diễn Thành
huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An). Vẫn chưa yên, ông phải tiếp tục đưa Trần
Công Sủng ra chùa Sải làng Kim Cốc (nay là xã Mai Lâm huyện Tĩnh Gia - Thanh
Hoá). Khi đã ổn định, ông quay trở về chùa Liên Hoa làng Phì Cam
nay là xã Vĩnh Thành huyện Yên Thành sống cùng người con út Trần Thiện Tính
(Chân Thường)...
Đến đời sau, tổ Trần Chân Tịch, tự Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm, là con trai trưởng của tổ Trần Thiện Tính (Chân Thường) tuổi độ 16-17, tổ được gửi vào chùa Bổn làng Giàn, thôn Đông Tháp (nay là xã Diễn Hồng huyện Diễn Châu Nghệ An).
Đến đời sau, tổ Trần Chân Tịch, tự Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm, là con trai trưởng của tổ Trần Thiện Tính (Chân Thường) tuổi độ 16-17, tổ được gửi vào chùa Bổn làng Giàn, thôn Đông Tháp (nay là xã Diễn Hồng huyện Diễn Châu Nghệ An).
Như vậy: Tổ ông Pháp Độ (Trần Quốc Duy) và Tổ cháu Phúc Quảng đã có thời gian lương tựa nơi cửa Phật. Chính vì vậy mà Tổ Vô Ý
và hậu duệ khi viết gia phả họ Cao Trần đã ghi tên tự của các Tổ đều có các từ
của nhà Phật:
Trần Quý Công tự Vô Tâm
Trần nhất lang tự Phúc Thiện
Trần nhị lang tự Phúc Tín
Trần tam lang tự Chân Không
Theo các từ nhà
Phật “Tính không” trong Kinh Phật được giải thích như sau: Chân: là thật
đúng với hiện thực. Không: để chỉ chung những cái hư vô, trái với sắc...Trước
đây nhiều người và nhiều lúc tôi đã hiểu: Tổ Trần tam lang là công
dân bình thường, không có công trạng tập tước như hai vị Trần nhất
lang và Trần nhị lang.
Sau đây chúng ta tham khảo một bài bình thơ chữ Hán
của sư trưởng Như Thanh của tác giả Trần Tuấn Mẫn để hiểu thêm các
từ trong kinh Phật có liên quan đến tên hiệu của các Tổ: Vô Ý, Vô
Tâm, Chân Không. Biết đâu đây cũng là thông tin gắn kết giữa
các thế hệ trong hoàn cảnh li loạn, nguy cơ gián đoạn họ tộc ...
Cảm
nghĩ khi đọc một số bài thơ chữ Hán của sư trưởng Như Thanh
Trần Tuấn Mẫn
(Nguồn: www.tuvienquangduc.com.au/tho/61camnghi.html)
(Nguồn: www.tuvienquangduc.com.au/tho/61camnghi.html)
Sư trưởng Như Thanh đã sáng tác,
biên soạn và dịch thuật khoảng 20 tác phẩm Phật học. Riêng về thơ, Sư trưởng
cũng có ít nhất 8 tập với các đề tài về đạo, về khuyến tu, về sự cảm nhận thực
tại của một nhà tu sĩ đã thấm nhuần và thể nghiệm giáo pháp của Đức Thích Ca.
Thơ của Sư trưởng gồm nhiều thể loại: thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ,
tám chữ, lục bát, song thất, Đường luật. Đặc biệt mới đây tôi có được đọc tập
thơ chữ Hán, gồm 25 bài mà tôi rất tâm đắc. Trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ
xin nói đến một đề tài khá đậm nét trong tập thơ, đó là sự thể nghiệm sâu sắc
về cái thực tại rất mực cụ thể, rất mực sinh động, hồn nhiên lại vô cùng vi
diệu của nhất như, bất nhị, bình đẳng, "ngay ở đây và bây giờ" và vẫn
như thế từ vô thỉ đến vô chung.
Trước hết, là một vũ trụ quan của
tính Không (Sunyata) làm căn bản cho cái nhìn về thế giới duyên sinh, hữu vi
đầy những chuyển biến, đầy tính đa thức của vọng tình phân biệt. Chỉ có đứng trên
quan điểm tính Không, tức cái thực tướng của Chân không, cái Không tuyệt đối và
vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì rồi thì mới thấy cái ảo hóa của Có, Không
đối đãi để rồi hợp nhất đúng vào tổng thể Chân như:
Chân không thực tướng lộ nguyên hình,
Sắc sắc, không không liễu
liễu mình.
Tức sắc, tức không, chân thể
hiện,
Phi không, phi sắc, vạn duyên
trình.
(Thực tướng)
Vì Không tính là pháp tính, vì tính
của pháp là Không thì tướng của pháp dù có muôn hình vạn trạng vẫn chỉ là biểu
hiện của cái Không tuyệt đối, tức là mọi sự vật chỉ hình thành do duyên mà
thôi:
Pháp tướng vô biên vạn sự
thành,
Trùng trùng vật sắc tự duyên
sanh.
(Pháp tướng)
Cái thế giới vô lượng vô biên của
pháp tướng mà ta quan niệm đối đãi bao gồm tâm - cảnh, ta - người luôn luôn
chuyển biến được gọi là thế giới tâm vật lý hay thế giối hiện tượng. Nó được
gán vào bao nhiêu là ý niệm, bao nhiêu là tên gọi khởi từ những cảm thọ của ta.
Nó là thế giới của phân biệt (vikalpa) như kinh Lăng Già tuyên bố "Tam hữu
duy phân biệt".
Do kết quả tu tập lâu dài, tác giả
lĩnh hội, thể nghiệm về một cái nhìn vượt qua thế giới của phân biệt và đề nghị
ta nên có cái nhìn ấy. Chỉ có như thế ta mới thấy được "thế giới đúng như
nó là". Như thị, như như, nhất như, chân như, chân thực đều là những từ Hán
dịch từ Phạn ngữ Tatwam, hay Tathà, hay Tathàta. Vì là Chân như nên thế giới dù
mang vẻ đa phức, vẫn là thể hiện của cái chân tính nhất như, bất dị hay bất nhị
(Advaita, Advaiya) và bình đẳng (Sama), bất sinh (Anutpanna):
Pháp phá nguyên lai bổn thể
đồng,
Bất sinh bất diệt vạn duyên
thông.
Như như bình đẳng vô nhân
ngã,
Thị thị chơn thường, tuyệt
sắc không.
(Pháp tính)
Chỉ bằng bốn câu thơ trên, Sư trưởng
Như Thanh đã khẳng định một thế giới quan đúng đắn chân thực: Một sự vật đều
cùng một bản thể, thỉ chung vẫn như thế, không sinh diệt, luôn bình đẳng không
hề có phân biệt ta với người, sắc với không, hay nói một cách khác là bất nhị.
Đó là Pháp tính (Dharmata) vậy. Vậy, tất cả mọi việc đều như thị, như thế, là
đồng là bình đẳng, vô phân biệt.
Tâm cảnh, sắc không đồng nhất
thể,
Chân không thực tướng lô nguyên hình
(Thực tướng)
Một khi đã thông hội với thực tướng
của chân không thì lý bình đẳng bất sinh lại càng được hiển lộ: tất cả đều hòa
đồng, đều thuận hợp. Vì pháp tính vốn là Không nên không cảnh, không tâm, không
đây, không đó, chỉ có sự khế hợp mà thôi vậy. Ý niệm về hạnh phúc, khổ đau, về
phàm, thánh, về Niết bàn, trần thế chỉ còn lại sự tịch lặng trong diệu dụng của
nhất như:
Phi cảnh, phi tâm, phi bỉ
thử,
Khế thời, khế sự, khế tây
đông.
(Pháp tính)
Hay:
Nhân tâm, vật cảnh vô sai
biệt,
Thành ý, phàm tình tự giả
không.
(Diệu dụng)
Và:
Cực lạc, Ta bà đồng nhất
phẩm.
Pháp thân thanh tịnh thể an
nhiên.
(Pháp thân)
Chính vì không phân biệt, hành giả
đạt được tự tại, thong dong của sự thể hiện Đạo viên mãn, dứt triệt mọi ranh
giới chia cách của nhị biên, điều mà tác giả gọi là tính vô ngại của sự dung
hợp viên mãn:
Viên đạo dung thông vạn pháp
thành,
Ngã nhân, tâm pháp bất tương
tranh.
Đề huề khế hợp Không hòa Sắc,
Tương tức tùy duyên nhiễm hóa
thanh.
(Viên dung vô ngại)
Vô ngại là diệu dụng của một quá
trình công phu tu tập để thâm nhập thực tại. Chân như bàng bạc khắp thời gian
và không gian nằm sâu kín bên trong, lại bao trùm cả vạn pháp hữu vi. Cho nên,
sự tùy nghi là một thuộc tính của tự tại giải thoát. Tâm này là Phật, Phật ấy
là tâm, gặp duyên là lập tông chỉ, gặp chỗ là làm chủ nhân, đâu cũng là nơi để
mình làm người điều ngự, đâu cũng là chân lý, ngay đây là đúng, ngay đây là an
lập:
Đương tâm tức Phật, thị tâm
thị Phật,
Ngộ duyên tức tông, tùy xứ
tác chủ.
Tuỳ xứ tác chủ, lập xứ giai
chân,
Đương xứ tức chân, tùy xứ an
lập.
(Danh ngôn danh lý)
Đoạn thơ hùng hồn, mãnh liệt, lại
thong dong thoải mái nghe như bản tuyên ngôn về một thái độ sống đạo, tự do và
giải thoát tâm linh. Chính trên lập trường này mà hành giả càng lúc càng thấy
ra cái ý nghĩa kỳ diệu của Chân như tịch mịch vốn dĩ vô cùng tha thiết thâm
trầm, vốn tự bao giờ đã hiện hữu, lừng lựng và từ đó hành giả nhận ra rằng: Khổ
đau là do sự phân biệt của một cái tâm điên đảo chứ thực tại có làm gì đâu! Hoa
nở, chim về, gió thổi, mây bay, trăng sáng, nước trôi thực là nhẹ nhàng, thi
vị, đâu có ý nào, đâu có lời nào! Tất cả là những bóng dáng của nhất như, rất
tự nhiên, rất cụ thể, lại vô cùng linh diệu:
Nhạn tự vô tâm khứ
Phong nguyên bất trước lại.
(Thiền đạo)
Hay:
Thuỷ tại hải trung vô ý
thuyết,
Nguyệt lưu thiên thượng bất
ngôn trang.
Xuân lai đông khứ uyên nguyên
lộ,
Nhạn ngữ hoa ngôn ảo diệu
tràng.
(Ngộ đạo)
Từ đó, niềm vui sống đạo của hành
giả trở nên trong sáng, hành giả thể nhập lý Không, tức là tâm cảnh vô phân
biệt trong thái độ vô chấp
Thiền duyệt an tâm lạc cảnh
đồng,
Liễu tri vạn sự tất giai
không.
Chân linh nhất phiến vong
nhân ngã,
Diệu thể vô ngôn tuyệt tổ
tông.
(Thiền duyệt)
Nhưng để có được niềm vui Thiền, để
có được cái chân linh, thông hội được cái diệu thể của vô ngôn trong lòng cái
thế giới hữu vi vô thường (Nhàn khan thế giới tùy duyên hiện) thực không phải
dễ dàng. Sư trưởng Như Thanh, gần suốt một đời, với gần 70 hạ lạp đã trăn trở,
thao thức, đã nghiền ngẫm kinh luận, đã thực hành giới hạnh và thiền định trong
nỗ lực tinh tấn liên tục. Quá trình này đã được Sư trưởng bày tỏ qua nhiều pháp
ngữ thiền thi:
Học nghiệp tinh thần tự đảm
đương,
Thời thời ôn cố trí tư lương.
Thân tâm tĩnh định trí nhân
lực,
Trí huệ minh khai ngộ phước
hương.
(Cảm đề)
Bốn câu thơ trên là cả một quyết tâm
hạ thủ công phu, thực hành Giới Định, Huệ làm tư lương cho cuộc hành trình tìm
về thực tại. Sư trưởng nhấn mạnh đến nguyện, đến hạnh, đến sự xả bỏ tham dục,
đến quyết tâm tinh tấn, nuôi dưỡng thần khí:
Nguyện thâm, hạnh đại, khí tịnh, thần thanh.
Hay:
Ly dục tịch mịch, đoạn hoặc
chứng chân,
Nội thủ công thâm, thần minh
khí tịnh.
(Danh ngôn chân lý)
Quá trình tu tập như trên là một
kinh nghiệm thâm sâu và cụ thể của Sư trưởng, cũng là pháp ngữ về sự tiến tu
cho mọi người nhất là cho hàng lậu học. Đây là cái công phu mà mỗi người phải
thực hiện bằng chính tự mình, xa rời hai cực đoan của sự chạy rông truy tìm
chân lý bên ngoài và của sự kiêu mạn xem mình là bậc tu chứng tự tri, để rồi
kiếp kiếp phải lang thang qua những đau thương mịt mùng trong cuộc mê du vô
tận.
Trên đây, là những dòng ngẫu cảm qua
một số bài thơ trong tập thơ chữ Hán của Sư trưởng Như Thanh. Cái khí vị lưu
lại trong tôi ngoài nội dung súc tích của tập thơ là những lời lẽ trang nghiêm
thuần hậu, thâm trầm như một tỏ bày tâm sự, tự nhiên, tự tại như tiếng nói của
mây, nước, đất, trời; lại thâm thiết như lời giáo huấn của bậc Tôn sư đầy bi
nguyện. Cao quý, chân thực và đẹp đẽ thay những bài thơ chữ Hán của Sư trưởng
Như Thanh!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét