GIA PHẢ DÒNG HỌ CAO TRẦN
LỜI
MỞ ĐẦU
Thái tổ húy Bong, tự Vô
Ý, gốc họ Trần. Năm Quý Hợi (1683) đời Vua Lê Hy Tông, tổ đưa người con trai thứ
2 là thái Tôn, húy Căn tự Công Bật từ vùng Bến Đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi
Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa) đến ấp Hoè Nha, huyện Giao Thủy, Trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến)
khai cơ, lập nghiệp, đổi từ họ Trần sang họ Cao.
Họ Cao Trần khởi đầu từ
Tổ Vô Ý đến nay đã có trên 330 năm với 15 thế hệ làm ăn sinh sống ở vùng ấp Hòe
Nha, sau là làng Hoành Nha và nay là xã Giao Tiến. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào của
lịch sử, các thế hệ của dòng họ Cao Trần đều chăm lo vun đắp, giữ gìn truyền thống
tốt đẹp đó là:
Sống nhân đức và đoàn kết dòng tộc. Cần kiệm xây dựng cuốc
sống gia đình. Chăm lo việc học hành của con cháu. Báo hiếu công ơn tổ tiên, ông
bà, bố mẹ. Tích cực tham gia đóng góp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Cây có gốc, nước có nguồn, đó là quy luật của tạo hóa. Con
người ta cũng vậy: có cội nguồn gốc rễ, có tổ tiên, mới có con cháu, hậu duệ
ngày nay. Các thế hệ của dòng họ đều có ý thức tổ chức ghi chép gia phả truyền lại
cho đời sau để biết nguồn gốc của mình, về sự nghiệp và truyền thống tốt đẹp của
dòng họ.
Cuốn “Gia phả
của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến” đầu tiên được viết bằng chữ Hán qua nhiều thế
hệ ghi chép lại, cuốn đang có hiện nay do ông Cao Bá Lô (đời thứ 11, Ất phái) tập
hợp và biên soạn từ đời thứ 1 đến đời thứ 9. Năm Quý Dậu (1993) trong họ tổ chức
dịch từ cuốn chữ Hán ra chữ Việt, bổ sung và biên tập tiếp đến đời thứ 13, được
hoàn thành vào mùa Thu năm Đinh Sửu 1997. Ban biên tập gồm các ông: Tôn trưởng Cao Xuân Thiệu (đời thứ 10, Giáp phái); Tổng
biên tập Cao Quang Thạnh (đời thứ 11, Ất
phái); Biên tập viên: Cao Xuân Đống (đời thứ 10 Nhâm phái); Cao Ngọc
Đình (đời thứ 11, Giáp phái); Hiệu đính và chế bản: Cao Ngọc
Lâm (đời thứ 12, Ất phái)
Từ năm 2010 -
2017 dòng họ Cao Trần, đã tổ chức biên soạn lại Cuốn “Gia phả của dòng họ Cao
Trần, Giao Tiến”, tập trung phần phả hệ
10 đời, trên cơ sở kế thừa cuốn gia phả năm 1997. Thực hiện từ mùa Hè năm Canh
Dần 2010, các bản thảo lần 1, 2, 3 đã được in gửi lấy ý kiến các phái và các cụ
và các ông trong họ, sau đó được hoàn thành vào mùa Xuân năm Mậu Tuất 2018.
Lần biên soạn
này được tiến hành cẩn trọng, soát xét tỷ mỷ làm đi làm lại nhiều lần, tra cứu
chỉnh sửa bổ sung. đối chiếu với cuốn gia phả năm 1997, cuốn gia phả tiếng Việt
của cụ Cao Bá Lô, với phú ý năm 2009 và gia phả của các phái, các chi, cùng các
tài liệu lịch sử, ý kiến bổ sung của các cụ các ông trong họ. Đồng thời dành thời
gian dài để mọi người xem và đóng góp ý kiến cho bản thảo, nhưng cũng không
tránh khỏi những thiếu sót, xin mọi người bổ sung để làn tái bản sau được tốt
hơn.
Mong các thế hệ sau này tiếp tục hoàn thiện và
biên soạn các đời tiếp theo, để các thế hệ của dòng họ được liên tục đầy đủ, lưu
truyền mãi mãi cùng con cháu muôn đời.
BAN BIÊN SOẠN
PHẦN THỨ NHẤT
TỔNG
QUAN VỀ NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH KHỞI
NGHIỆP, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN, DÒNG
HỌ CAO TRẦN, XÃ GIAO TIẾN.
1 - Nguồn gốc dòng họ Cao Trần Giao Tiến.
2 - Thời
kỳ khởi nghiệp từ năm 1683, đến năm 1787.
3 - Thời
kỳ sau sông Hồng đổi cửa năm 1787 đến năm 1945.
4 - Thời
kỳ từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
5 - Xây dựng từ đường và lăng mộ tổ.
1 - NGUỒN GỐC
HỌ CAO TRẦN GIAO TIẾN.
Thái tổ tên húy là Bong
(có bản dịch là Bông), tự Vô Ý, gốc họ Trần. Năm Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy
Tông (1676 - 1705), niên hiệu Chính
Hòa thứ 3 (1681 - 1705) tổ đưa người con trai Thứ hai húy là Căn tự Công Bật từ
vùng Bến Đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ
Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) đến ấp Hòe Nha, trấn Sơn Nam
Hạ (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi
từ họ Trần sang họ Cao. Bà Thái tổ và các con cùng phần mộ đời trước của tổ đều
ở quê cũ, không ghi rõ sự thể sinh thời thế nào? Điều này ghi trong phả lục và
được biết do Thái tổ dặn lại.
Đôi câu đối ở từ đường họ:
Đôi câu đối bằng chữ
hán được ghi lại ở từ đường họ vào thời Vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh
(1705-1719), để nhắc nhở các thế hệ con cháu luôn nhớ tìm về cội nguồn của dòng
họ.
Phiên âm:
“Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất
Khởi gia tự tích Ái châu lai”
Dịch nghĩa:
“ Nối đời là hậu duệ của họ Trần vậy
Gốc nhà từ Thanh Hóa tới đây”.
Năm chân linh Thái tổ Vô Ý đưa từ quê cũ ra quê mới để thờ:
Trần Quý Công tự Vô Tâm
Trần Nhất lang tự Phúc Thiện
Trần Nhị lang tự Phúc Tín
Trần Tam lang tự Chân
Không
Trần Quế Hoa Nương
Phiên âm lời viết ở bản
chữ Hán về năm chân linh:
“Dĩ thượng chư
Chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán. Vô Ý Công thiên vu tư địa ấp, biên gia
phả tương Trần tính duệ hiệu, thư vu thế phả chi thượng sử tử tôn tri thế hệ
chi sở tự xuất dã”
Dịch nghĩa:
“Các vị Chân linh đời
trước tổ Vô Ý, phần mộ nguyên ở quê cũ. Tổ Vô Ý đến đất mới, biên tập gia phả, đem
nguyên duệ hiệu họ Trần viết trước thế phả để con cháu biết xuất xứ của dòng họ”
Năm chân linh trên được
Thái tổ Vô Ý đưa đến quê mới để thờ và được ghi vào gia phả của dòng họ và truyền
đến nay. Điều không bình thường ở đây là, các chân linh không ghi tên cụ thể, phần
mộ chỉ ghi là ở quê cũ, nhưng không cho biết rõ là ở địa phương nào?
Lời tựa bản gia phả gốc
bằng chữ Hán:
Phiên âm:
“Thiên tử tính dĩ lập tôn bản, hệ tự sở xuất, khởi gia xưng toán tổ, kế
tự đương tự bất vong. Ngã Cao tộc phát tích tự Trần gia, kiến cơ trụ vu Nha Chử,
tiền tác hậu thuật, khẳng cấu khẳng đường, ngưỡng thâm khải hựu chi nhân, cánh
thiết tác cầu chi niệm, viên thị tập vi phả lục, vĩnh thị tôn diêu, thứ hồ tự sự
khổng minh nhi thế thứ khả kỷ dã”.
Dịch nghĩa:
“Tạo hóa cho dòng họ
để làm gốc, từ đó xây dựng và phát triển, kế thừa mãi mãi không dứt. Họ ta phát
tích từ họ Trần, dựng nề nếp từ Nha Chử, đời trước kể lại đời sau ghi chép, khẳng
định cơ sở cội nguồn, chịu ơn sâu tiên tổ, mở mang dòng họ, tâm niệm ghi nhớ
không quên.
Nay biên tập phả này để
con cháu đời đời sáng tỏ, các thế hệ đời đời nối dõi”
Các chi tiết khác cũng
không được ghi chép lại đầy đủ, nên việc tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc của dòng
họ Cao Trần ta ngày nay là rất hạn chế và khó khăn.
Thành tâm của con cháu
trong dòng họ là luôn hướng tới tổ tiên, mong tìm kiếm cội nguồn. Từ cuối những
năm 50 đến năm 1997 của thế kỷ XX. dựa vào những căn cứ trên nhiều lần họ ta đã
tổ chức khảo cứu ở vùng Thanh Hóa, nơi Thái tổ Vô Ý ra đi như được ghi trong
gia phả, để tìm hiểu rõ thêm về nguồn gốc, thân thế và sự nghiệp của Thái tổ, nhưng
không có kết quả, có thể đây là nơi lập nghiệp tạm cư không dài.
Tháng 10 năm 1999 khảo
sát ở Nghệ An có được thông tin quan trọng: Gia phả họ Cao Trần Giao Tiến, có
những chi tiết trùng khớp với gia phả
dòng họ Trần Nguyên hãn nghệ Tĩnh.
Năm 2000 sau quá trình
tìm hiểu, nghiên cứu gia phả của họ Cao Trần Giao Tiến. Hội đồng gia tộc dòng họ
Trần Nguyên Hãn, Nghệ Tĩnh đã tổ chức hội thảo và quyết định công nhận họ Cao
Trần Giao Tiến Giao Thủy Nam Định là hậu duệ của tổ Trần Công Ngạn, thuộc phái
tổ Trần Chân Tịch, húy Phúc Quảng (đời thứ 4, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh
Nghệ An), dòng họ Trần Nguyên Hãn Nghệ Tĩnh, nay là dòng họ Trần Pháp Độ Nghệ
An (xem thêm phần Tài liệu tham khảo).
Việc kết nối họ Cao Trần
Giao Tiến với dòng họ Trần Pháp Độ Nghệ An, bước đầu mở ra cho dòng họ ta một mốc
lịch sử mới. Thành quả đó thuộc về các cụ, các ông của nhiều thế hệ, qua nhiều
năm gian khó tìm kiếm, đây là điều được ghi nhận.
Vẫn còn đó những vấn đề
mà thế hệ ngày nay và có thể cả sau này cần phải tiếp tục tìm kiếm, nghiên cứu
để làm sáng tỏ như:
-
Năm chân linh trên không ghi, không ghi tên tuổi cụ thể, phần mộ
ghi tại cựu quán nhưng không ghi rõ địa danh ở địa phương nào. Vậy các chân
linh đó có quan hệ như thế nào đối với Thái tổ Vô Ý.
-
Nguyên nhân việc Thái tổ vô ý chuyển cư từ châu Ái ra ấp Hòe Nha
và đổi từ họ Trần sang họ Cao.
-
Thái tổ Vô Ý có quan hệ như thế nào đối với tổ Trần Công Ngạn.
-
Thái tổ Vô Ý có làm quan hay không. Trong phả gốc không nói rõ
điều đó, nhưng có ghi hai con của tổ được phong Tập tước công.
Những vấn đề trên vẫn
chưa có chứng cứ nào vững chắc để có câu trả lời xác đáng. Một số ý kiến đưa ra
còn nặng về dự đoán chưa đủ sức thuyết phục. Khi biên soạn cuốn gia phả lần này,
phần nói về Thái tổ Vô Ý, Ban biên soạn vẫn căn cứ vào các văn bản cũ, khi nào
thật sáng tỏ mới sửa đổi để tránh sai lầm và thiếu đồng thuận của nhiều người
trong họ. Rất mong các thành viên trong họ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu để có
được câu trả lời mà bao lâu nay dòng họ mong muốn.
2 - THỜI KỲ KHỞI NGHIỆP
TỪ NĂM 1683 ĐẾN NĂM 1787.
Khoảng năm Diên Ninh thứ
3 (1456), triều Vua Lê Nhân Tông (1443- 1459), dòng họ Nguyễn đứng đầu là ông
Nguyễn Thịnh (Hậu duệ sau này là ông Nguyễn Khải, còn gọi là ông Biểu Khải,
người gốc thôn Hòe Nha, thuộc xã Thụy Chính huyện Thái Thụy qua làng Dương Liễu xã Minh Tân huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, sang vùng bãi biển Giao
Thủy, trấn Sơn Nam, khai hoang lập ấp và lấy tên làng cũ đặt cho nơi ở mới là ấp
Hòe Nha, sau đó là làng Hoành Nha, nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định.
Kế tiếp là họ Hoàng do
ông Hoàng Công, tự Võ Tâm đến lập nghiệp nơi đây cùng họ Nguyễn vào năm Hồng Đức
thứ 23 (1492), đời Vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Sau họ Nguyễn, họ Hoàng là
các họ khác: Lê, Vũ, Phạm, Cao, Mai… tính đến nay đã có trên 60 dòng họ.
Địa phận ấp Hòe Nha ban
đầu ở vào khoảng Ngô Đồng ngày nay. nằm bên tả ngạn sông Hồng (cửa sông Hồng đổ
ra biển Đông, khi đó là của Hà Lạn). Phía Đông Bắc giáp Dương Liễu Thái Bình, ngăn
cách bằng con sông nhỏ (tương truyền hai bên cửa sông qua lại bằng một chiếc cầu
tre nhỏ, buộc bằng ba cái lạt, trận lũ lịch sử năm 1787 phá sông nhỏ này thành
dòng chính của Sông Hổng đoạn từ cống Ngô Đồng đổ ra biển). Từ đó cửa sông Hồng
ra biển được gọi là cửa Ba Lạt. Phía Bắc và Tây Bắc giáp sông Hồng; sau năm
1787 đoạn sông hồng từ Ngô Đồng xuống cửa Hà Lạn thu hẹp lại, nay gọi là sông
Sò, phía bên kia là huyện Xuân Trường. Phia Đông và phía Nam, giáp bãi bồi biển
Đông.
Vào những năm cuối niên
hiệu Dương Hòa (1635-1643), đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), do vùng đất mới
kém ổn định hay bị lún và sạt lở, nên dân cư đã chuyển dần về phía cửa Hà Lạn, để
tiếp tục khẩn hoang và xây dựng làng ấp. Việc hình thành làng ấp diễn ra trong
321 năm (1456-1787), trải qua nhiều thế hệ khai hoang lấn biển, làm thủy lợi, ổn
định nơi ở, phát triển sản xuất, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, văn
hóa xã hội… Hoành Nha dần trở thành một làng hoàn chỉnh, trù phú ở vùng đất mới
của huyện Giao Thủy.
Theo tài liệu lịch sử thì Tổng Hoành Nha được hình thành
vào thời Lê Cảnh Hưng (1750-1770) bao gồm 19 xã: Đông Bình, Diêm Điền, Hoành
Đông. Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Hoành Lộ, Hoành Nha, Khắc Nhất, Ngưỡng Nhân, Lạc Nông, Duyên Thọ, Tiên Chưởng,
Sa Châu, Thanh Khiết, Đan Phượng, Vân
Trì, Quất Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ.
Như vậy ấp Hòe Nha được
đổi thành xã Hoành Nha có thể vào thời này hoặc sớm hơn. Một số tài liệu cho rằng,
ấp Hòe Nha được đổi thành xã Hoành Nha vào thời kỳ xây dựng làng xã lần thứ 2, tức
là sau năm 1787 là không chính xác.
Thái tôn Công
Bật theo Thái tổ Vô Ý đến ở ấp Hòe Nha năm 1683, niên hiệu Chính Hòa thứ 3
(1681-1705), đời Vua Lê Hy Tông (1676-1705), khi đó Thái tôn ở tuổi đang lớn.
Thời kỳ này làng ấp đang trong gia đoạn định hình lần thứ nhất. Bối cảnh lịch sử
văn hóa xã hội, được người đời lúc bấy giờ ca ngợi là gia đoạn thịnh trị bậc nhất
của thời Lê Trung Hưng (thời vua Lê chúa Trịnh). Đến khi trưởng thành, Thái tôn
chăm lo phát triển kinh tế, đời sống ngày một khá hơn. Khi làng ấp hình thành, Thái
tôn đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng các công trình văn hóa xã
hội trong ấp như: mua hậu Phật ở chùa Hưng Long (thôn Chính) năm 1713, và chùa
hưng An (thôn Thượng) năm 1718. Thái tôn đã thực hiện được ý cha là sâu rễ bền
gốc ở nơi quê mới, làm ăn sinh sống lâu dài với các dòng họ khác. Ấp Hòe Nha
lúc bấy giờ là vùng đất mới dân cư thưa thớt, Tổ đã kết hôn với ba bà, hi vọng
sinh ra đông con nhiều cháu và từ đó phát triển dòng họ Cao Trần trở thành một
trong các dòng họ lớn ở vùng đất Hoành Nha sau này.
Thái tôn tích
cực phát triển kinh tế, tham gia công việc xã hội, tổ còn chăm lo đến việc dạy
dỗ học hành cho con cháu, sống tu nhân tích đức, xây dựng nên truyền thống và
phong cách sống tốt đẹp cho dòng họ, như đôi câu đối được ghi lại ở từ đường họ
như sau:
“Gia truyền tín hậu di mưu viễn
Thế mộ
thi thư nhã phạm tồn”.
Nghĩa là:
“Xây nền
tín hậu để lại cho con cháu lâu dài.
Chăm lo việc học hành làm nề nếp cho muôn thuở”.
Con cháu của ông đến đời thứ 3 trở đi đã có người ra làm
việc ở địa phương và nhà nước như: Thập lý hầu, Tri sự, Tri sự điện tiền, Lang
tướng, Trung lang tướng…
Họ Cao Trần ta bắt đầu từ
Thái tôn Công Bật ngày càng phát triển và thịnh vượng trên vùng quê mới.
Vào cuối đời Lê - Trịnh (1732 - 1787) xã hội phong kiến suy tàn, nội bộ giữa vua Lê và chúa Trịnh
ngày càng mâu thuẫn, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp các vùng.
Trong Nam nhà Tây Sơn đã đánh bại chúa Nguyễn, năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi
Hoàng đế. Năm 1786 Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ nhất tiến vào Thăng Long
thực hiện khẩu hiệu: “Phù Lê diệt Trịnh”.
Thời
kỳ này họ ta đã có những đóng góp tích cực cùng các họ khác trong ấp, mở mang
khai phá đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng để tồn tại và phát triển. Tham gia tổ
chức bảo vệ an ninh của làng, ấp và các công việc của đất nước như: Ông Bá Tuân
(đời thứ 5) với chức Thập lý hầu, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn
giặc cướp (giặc Mèo), sau 7 ngày, đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông
Cao Đức Trung (đời thứ 5), thời nhà Lê có võ công được phong làm Lang tướng. Ông
Danh Tiêm (đời thứ 5) làm Tri sự, rồi tham gia luyện binh xã, sau này hy sinh ở
núi Tam Tầng, Kinh Bắc, Bắc Ninh. Ông Cao Đăng Dụng (đời thứ 6) làm Trung lang
tướng cuối triều Lê, sau chuyển sang hàng ngũ Tây Sơn, đến triều nhà Nguyễn ông
bỏ về quê.
Việc
học hành và con đường khoa cử của họ Cao Trần trên đất Hòe Nha (sau là Hoành
Nha) trong khoảng gần một thế kỷ từ năm 1683 đến năm 1787, suốt thời kỳ xây dựng
làng xã lần thứ nhất không mấy thành công. Các ông: Cao Công Cái, Cao Bá Hân, Cao
Danh Đạt, Cao bá Tuân, Cao Đức trung, Cao Đức Tuấn, Cao Đăng Dụng... đều rất
kiên trì học hành thi cử, nhưng không đỗ đạt cao. Về sau các ông đều chuyển
sang con đường binh nghiệp, hoặc tham gia chính quyền địa phương. Một số ông đã
làm đến chức: Tri sự Điện tiền, Lang tướng, Trung lang tướng, Cai thập lý hầu… Nhiều ông về quê mở trường dậy học, làm thuốc...
Sự
nghiệp của cha ông ta trong thời kỳ này còn để lại đời sau những dấu ấn sâu sắc
của thời kỳ khởi nghiệp, phát triển dòng họ, góp phần cùng các dòng họ khác xây
dựng và phát triển làng, ấp lần thứ nhất. Họ Cao ta khi này mới có khoảng hơn
40 đinh nam với hậu duệ của đời thứ 6, thứ 7.
3 - THỜI KỲ TỪ NĂM 1787 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945.
Ngày
15-8 (Âm lịch) năm Đinh Mùi (1787), đời vua Mẫn Đế (1787-1789), niên hiệu Chiêu
Thống năm thứ nhất, một trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở vùng Giao Thuỷ, làm sông Hồng
đổi dòng đổ thẳng ra biển, tạo ra cửa sông Hồng mới là Ba Lạt ngày nay. Đoạn
sông Hồng cũ chảy ra cửa Hà Lạn bị thu hẹp lại (thành sông Sò ngày nay). Xã
Hoành Nha từ tả ngạn chuyển thành hữu ngạn sông Hồng, sản nghiệp bị nước lũ cuốn
trôi, cư dân thất tán, làng xã thay đổi, hai bên lưu vực sông bị phù sa bồi đắp
thành cồn bãi. Thiên tai nặng nề tàn phá, đây là môt sự kiện lịch sử về địa lý
lớn nhất của thời kỳ này. Sau trận lũ lụt dân cư lại trở về, xây dựng lại làng,
ấp lần thứ hai. Họ ta có các ông: Thập lý hầu Cao Trọng Đạt, Tri bạ Cao Ngọc Cẩn,
Tri bạ Cao Đức Tuấn, Cai thập Lý hầu Cao Đức Mậu... đã đứng ra tham gia lo toan
công việc của dòng họ và của làng xã.
Đang
khắc phục thiên tai, nơi ở mới chưa kịp ổn định, một tai hoạ nữa đe doạ họ ta
đó là viên Tiên chỉ Đinh Kim Ngô, ba bốn ngày sau khi giết hại ông Cao Đức
Trung, đã đưa gia đinh sang định tiêu diệt cả họ Cao để trừ hậu hoạ. Khi đó
nhân đinh họ ta còn ít, ấp lại mới chuyển cư lần thứ hai, do vậy còn trù trừ
chưa quyết định, thì xuất hiện ông Cao Đức Tuấn (đời thứ 6) là cháu ông Cao Đức
Trung, đã dũng cảm dẫn đầu, chiến đấu và tiêu diệt được Đinh Kim Ngô trả thù
cho chú và cứu được dòng họ.
Công
cuộc xây dựng lại làng, ấp lần thứ hai, sau nhiều năm mới được hoàn thành. Năm
1803, đời Vua Gia Long năm thứ 2 (1802 - 1819)
xảy ra vụ tranh chấp gần 500 mẫu ruộng công điền trên cánh đồng Phù Sa. Cánh đồng
này được hình thành từ sau trận lũ lụt năm 1787, sau gọi là cánh đồng Bãi (xem Phù
Sa điền án). Các ông họ ta: Cao Trọng Đạt (Cai thập lý hầu, đời thứ 4), Cao Ngọc
Cẩn (Tri bạ, đời thứ 5), Cao Đức Mậu (Xã trưởng, đời thứ 6), đã cùng với Tổng
trưởng Đinh Danh Trực và 15 ông nữa: Phạm Tuấn Trạch (Hương Mục), Nguyễn Quý Thực,
Lê Huy Diệu, Lê Huy Lưỡng, Nguyễn Ngọc Cử, Lê Huy Thước, Vũ Đình Đỗ, Lê Huy Tuấn,
Vũ Đình Đạc, Đinh Danh Đức, Đỗ Không Liên, Phạm Đăn Mãn (Xã trưởng), Phạm Tuấn
Nguyên, Phạm Tuấn Ngạn, Vũ Đình lưu (Khán thủ), đại diện cho toàn xã tham gia tố
tụng lên trấn, tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế). Kết quả
sau 11 năm, kiên trì đấu tranh gian khổ, đến năm Giáp Tuất 1814, niên hiệu Gia
Long thứ 13 đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà.
Năm
1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1820 -1840) lại xảy ra vụ tranh tụng đất đai
trong nội bộ xã. Bọn hào lý đã ba lần trưng chiếm 150 mẫu ruộng công điền, làm
tư điền (xem Tam trưng điền án). Các ông ở họ ta: Cao Đức Cảnh, Cao Danh Hữu (đời
thứ 7), Cao Đức Chí (đời thứ 8) và 25 ông nữa trong xã cùng tham gia do ông Tri
bạ Vũ Thế Hào khởi xướng, cử người lên trấn (từ năm 1831 bỏ tổng trấn và đổi trấn
thành tỉnh) và kinh đô Huế khiếu kiện. Phải đến năm 1841 niên hiệu Thiệu Trị thứ
nhất (1841-1847) mới giành được thắng lợi. Dựa vào kết quả vụ Tam trưng điền án,
ông Cao Đức Bằng (đời thứ 8), cùng với bác là Cao Danh Quán (đời thứ 7) và anh
rể Vũ Xuân Đồng đã đấu tranh lấy thêm được 6 mẫu tư thổ và 12 mẫu ruộng khác
trong nội làng.
Qua
thắng lợi của hai vụ án này, đã để lại câu đối tế ở đình làng:
“Tiền Phù Sa, hậu Tam trưng công đức
trường lưu thiên tải hậu.
Ấp linh từ, gia tẩm miếu, hương đăng
tăng mỵ vạn niên xuân”
Lược
dịch:
“Án Phù Sa, án Tam trưng, sự nghiệp đấu tranh công đức
ngàn thu sáng tỏ.
Miếu làng thờ, đền họ phụng, phụng
thờ kế tự khói hương muôn thuở dài lâu”.
Vào những năm 1858-1873, ở vùng Nam Định có Hoàng giáp Tam
Đăng Phạm Văn nghị đứng ra tổ chức Lực lượng Nghĩa dũng quân vào Đà Nẵng đánh
Pháp, tham gia tiễu phạt bọn phỉ người Trung Quốc, ở vùng Đông Bắc, trấn thủ ở vùng
Hà Cát huyện Giao Thủy để bảo vệ vùng biên, đánh Pháp xâm lược Nam Định... Họ
ta tích cực ủng hộ, nhiều người trực tiếp tham gia chiến đấu và lập quân công
được sắc phong: Chánh thất phẩm Thiên bộ (Cao Đức Uẩn, Cao Như Sơn, Cao Đức Ngu,
Cao Đức Thắng, Cao Đức Tích, Cao Đức Tính), Chánh bát phẩm Bách hộ: Cao Đức Quý,
Cao Đức Hinh, Cao Ngọc Hướng) và nhiều ông được giữ chức Đội trưởng. Nhiều gia
đình trong họ đã tham gia quyên góp tiền cho Nghĩa dũng quân như gia đình các
ông: Cao Đăng Doanh, Cao Đăng Cử, Cao Danh Thăng với mức 1200 quan tiền, được
triều đình tặng thưởng Sắc văn: Tùng Cửu phẩm Bách hộ và 5 đồng ngân Long (đồng
tiền có hình con Rồng). Gia đình ông Cao Đức Ý ủng hộ mức 2200 quan tiền, được
triều đình tặng thưởng Sắc văn: Chánh cửu phẩm Bách hộ và 10 đồng ngân Long.
Tiếc rằng trong gia phả cũ của họ, không ghi được chi tiết
thời gian cũng như địa điểm các ông tham gia, nên kết hợp với gia phả và khảo cứu
về thân thế sự nghiệp của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Người biên soạn, chỉ
xin bổ sung và sửa đổi vào gia phả lần này một số ý để làm sáng tỏ thêm về sự
nghiệp của các ông nói trên ở thời kỳ đó.
Hoàng giáp Tam Đăng Phạm
Văn nghị (1805-1884), quê xã Tam Đăng (nay là thôn Tam Quan, xã Yên Thắng, huyện
Ý yên, tỉnh Nam Định). Ông đỗ Cử nhân năm 1837, Hoàng giáp năm 1838, khi mới 33
tuổi được triều đình bổ làm Tri phủ Lý Nhân. Năm 1845 về quê dạy học và tổ chức
nhân dân khai hoang lập ra ấp Sỹ Lâm (Nay là 3 xã: Nghĩa lâm, Nghĩa Hùng, Nghĩa
Hải, thuộc huyện Nghĩa hưng tỉnh Nam Định) Năm 1858 làm Đốc học Nam Định, cũng
thời kỳ đó Pháp tấn công Đà Nẵng, ông đã thành lập lực lượng Nghĩa dũng quân, vào
Đà Nẵng đánh Pháp, đến Huế thì quân Pháp đã rút, ông đưa quân ra Bắc tiễu trừ bọn
thổ phỉ người Trung Quốc đang quấy nhiễu ở vùng Đông Bắc cho đến khi dẹp xong mới
thôi. Triều đình thăng ông làm Hàn lâm viện Thị giảng Học sỹ. Năm 1866 ông được
sung chức Thương biện đóng quân ở vùng Hà Cát để trông coi vùng biên. Năm Tự Đức
26 (1873) ông làm Thị độc Học sỹ, mùa Đông năm đó Pháp đem quân đánh chiếm Hà Nội,
rồi đánh luôn Nam Định. Bấy giờ ông đã 68 tuổi, ông vẫn tổ chức Nghĩa dũng quân
chặn đánh quân Pháp ở ngã ba Độc Bộ, do quân ít đánh không nổi, ông cho rút
nghĩa quân về căn cứ Yên Hàn (Ý Yên Nam Định)...(theo Danh nhân đất Việt).
Ruộng đất canh tác và chỗ ở của cư dân là vấn đề cơ bản để
tồn tại cùng với sự phát triển thôn xã. Thời kỳ đầu dân cư của ba thôn (xã
Hoành Nha khi đó có 3 thôn: thôn Chính, thôn Thượng, thôn Trung) sống tập trung
ở các khu: Cựu Thượng, Cựu Chính, Cựu Trung, các cơ sở hạ tầng và các công
trình văn hoá, tín ngưỡng cũng được xây dựng chủ yếu ở đây. Thôn, xã dần được ổn
định, ruộng đất được phân chia trên cơ sở số dân và công sức đóng góp xây dựng
làng xã như sau: thôn Thượng 7 phần, thôn Chính 5 phần, thôn Trung 1 phần. Các thôn
có đình chùa miếu riêng. Toàn xã là một tổ chức hành chính và từ đó hình thành
hương ước xã chế. Họ ta sống ở thôn Thượng tập trung thôn Cộng Hoà và thôn Việt
Dũng (tên thôn sau Cải cách ruộng đất, trước đó gọi là: Giáp May, Giáp Giữa, Giáp
Đông). Sau do sự phát triển, dân số ngày càng đông, nên các phần đất tư thổ
không còn. Họ ta chỉ có hai phái ở lại thôn Thượng (Giáp phái và Ất phái), còn các
chi, phái khác trong họ dần tách ra ở rải rác trên các phần đất ruộng được cấp
trong xã. Riêng chi ông Cao Thế Hương, Cao Văn Đờn ở phần đất cuối xã. Vào thời
vua Minh Mạng, huyện Giao Thuỷ mở rộng thêm tổng Hoành Thu, nên phần đất này được
tách ra, nhập vào xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu, do vậy họ Cao ta có một biệt phái,
thuộc xã Giao Tân ngày nay.
Địa bạ xã Hoành Nha được duy trì biên lập đến năm Gia
Long thứ 4 (1805) phải dừng lại do vướng vị án Phù Sa, đến năm Gia Long thứ 13
(1814) vụ án mới kết thúc. Sau đó công việc được tiếp tục, đến ngày 22 tháng 3,
năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Địa bạ xã đã hoàn thành và được cấp trên xác nhận.
Những viên mục tham gia lập và hoàn thiện Địa bạ xã Hoành Nha: Cai tổng trưởng
Lê Huy Tuấn, Xã trưởng Cao Đăng Phong và Trưởng thôn Cao Đức Nhuận (đời thứ 7),
Hương mục Vũ Đình Lựu, Cao Đức Trứ (đời thứ 7), Lê Huy Bỉnh (xem địa bạ xã
Hoành Nha).
Về văn hoá, xã hội thời kỳ định hình thôn, xã lần thứ hai,
theo tộc phả, họ Cao ta đã có công đóng góp ngay từ buổi ban đầu. Các ông: Cao
Đức Mậu (đời thứ 6) với tư cách là Xã trưởng, con là Cao Đức Trứ (đời thứ 7)
Phó tổng trưởng, cháu là Cao Đức Bằng (đời thứ 8) Cai tổng, đã cùng các tiên liệt
trong họ trong xã, tổ chức dân kế tục xây dựng tu bổ tôn tạo các đình chùa miếu,
công quán, cầu đường, đê điều thuỷ lợi, đặt ra cac thể lệ lễ tiết cổ truyền như:
Xuân Thu lễ, Đinh tế, Lễ tịch điền để khuyến nông... Xây dựng Văn chỉ, mời các
danh nho về xã thiết trướng để khuyến học,
dành phần ruộng công để yến lão, bảo thọ, khuyến tiết và chăm sóc cô nhi, quả
phụ. Trên cơ sở của thôn Thượng, sau đó đã hiệp thương với toàn xã, hình thành
Hương ước, mở được kho thóc nghĩa thương, liên tục trong nhiều thập niên, nhờ vậy
mà có thóc cứu trợ cho dân trong xã, cũng như dân hai huyện Vũ Thư, Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình trong những năm mất mùa sang xã ta ăn xin và có thóc cấp cho Nghĩa
dũng quân, của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, thời kỳ đầu chống Pháp (1860 -1873).
Triều đình nhà Nguyễn, thời Vua Tự Đức đã ban thưởng cho Cai tổng xã Hoành Nha:
Cao Đức Bằng, 3 đồng tiền Rồng (ngân Long) và cho xã Hoành Nha bức đại tự có 4
chữ: “Thiện tục khả phong”. Làng ta trở thành một làng có mỹ tục thuần
phong, (bức đại tự này được treo ở đình Giữa thôn Việt Dũng, năm 1956 cải
cách ruộng đất, đình đã và đồ thờ tự đã bị dỡ bỏ, nay xây dựng thành Nhà văn
hóa, xóm 10, thôn Quyết Tiến). Cũng trong thời kỳ này biệt phái họ ta ở Duy Tắc,
do ông Cao Thế Hương và ông Cao Văn Đờn (đời thứ 7, làm Lý trưởng) đứng đầu, cũng
có nhiều công lao đóng góp cho việc xây
dựng xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu.
Kế tiếp truyền thống của tiền nhân, đầu thế kỷ thứ XX
(1932-1936), các ông Cao Đức Thố (đời thứ 9), Cao Trung Kế (đời thứ 10), đã
tham gia tố tụng vụ tham nhũng công điền của các lý dịch kỳ hào trong xã, nhưng
vì nội bộ có sự chia rẽ, nên đã không đạt kết quả. Tiếp theo vào những năm trước
Cách mạng tháng 8 năm 1945, có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản do ông Vũ Đức Âu
(Khải Ca), thôn Việt Dũng tổ chức, họ Cao ta có các cụ, các ông tham gia: Cao
Xuân Thọ (đời thứ 9), Cao Duy Tân và Cao Trần Nhai (đời thứ 10), Cao Xuân Hạ, Cao
Bá Uyên và Cao Ngọc Cảnh (đời thứ 11). Sau đó thành lập Hội ái hữu tương thân
(1942-1944), do ông Cao Xuân Hạ làm Hội trưởng. Hội đứng ra tổ chức đấu tranh, đã
giành thắng lợi, công điền đã được cấp cho toàn dân trong xã.
Thời kỳ định hình làng xã lần thứ 2, sau nhiều năm gián
đoạn do trận lũ lụt năm 1787, mãi đến thế hệ thứ 7 và 8 trở đi, khi đời sống đã
ổn định, các ông trong họ đã ra sức dùi mài kinh sử, tìm học các danh nho trong
vùng như: Hoàng Kỳ Nho (ông Đồ Giai), Tiến sỹ Roãn Uẩn, Tuần vũ Nguyễn Túc, Cử
nhân Nguyễn Quốc Trình, Tiến sỹ Đỗ Phát... Nhưng việc thi cử của các ông trong
họ ta không dành được học vị cao. Các ông Cao Đức Trứ, Cao Đức Bằng nổi tiếng
thông minh hiếu học, nhưng thi cử cũng không thành đạt. Gia phả còn ghi ông Cao
Đức Ý (đời thứ 8) như sau: “Học hành sâu rộng, theo đuổi trường thi không chán,
khi tới 53 tuổi, ông còn mời Hoàng giáp Phạm Văn Nghị về thiết trướng tại nhà
(1869). Phụ tử cùng học một thầy (con là Cao Đức Dậu, đời thứ 9). Năm 60 tuổi
đi thi ông cũng chỉ lọt vào vòng 3 (Nhị trường). Các thế hệ tiếp theo như ông: Cao
Ngọc Hướng, Cao Ngọc Cư, Cao Đức Cường, Cao Như Sơn, Cao Đức Thắng, Cao Đức hàm,
Cao Đức Dậu... đều nỗ lực học tập, theo đuổi miệt mài, không phải là không có
chí, âu cũng là học tài thi phận vậy”. Các ông đã phải dùng vốn kiến thức đó
chuyển qua hướng khác để lập thân lập nghiệp như: làm thuốc, dạy học, tham gia
chính quyền địa phương, nhiều ông theo Hoàng giáp tam Đăng Phạm Văn Nghị đánh
giặc (1858-1873), được phong Thất phẩm thiên hộ, Bát phẩm Bách hộ. Nhiều ông nhờ
vốn kiến thức văn hóa và có quân công được cải bổ văn giai như ông: Cao Ngọc Cư
(đời thứ 9) làm Huấn đạo châu Thạch An - Cao Bằng; Cao Như Sơn (đời thứ 9) làm
Thông phán Cao Bằng, Kênh lệch Mỹ Đức; Cao Đức Thắng (đời thứ 9) làm Hiệp tá Bộ
lễ ở triều đình tại kinh đô Huế...
Thế kỷ XX nền giáo dục dần dần thay đổi, việc học hành
trong họ ta chuyển biến chưa nhiều, vẫn theo Nho học, cốt có ít chữ thánh hiền
để giữ gìn luân lý kỷ cương của đời trước, mãi đến thập niên 30, 40 mới có một
số ít theo học trường Pháp-Việt, bậc Tiểu học. Duy có ông Cao Như Đãng (đời thứ
10, Giáp phái), học tới Đệ nhị Trung học phổ thông, còn lại đa số thất học.
4 - THỜI KỲ TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN
NAY.
Sau khi phát xít Nhật hất cẳng Pháp chiếm toàn bộ Đông
Dương, chúng bắt dân ta nhổ lúa để trồng đay và vơ vét lương thực dùng cho quân
sự, nên đã gây ra nạn đói đau thương cho cả
nước ta vào đầu năm Ất Dậu (1945). Họ ta cũng bị chết đói khoảng hơn 150
người, 19 gia đình không còn thừa tự. Do đời sống quá khó khăn nên trước và sau
năm 1945 đã có khoảng 30% số dân trong họ phải đi lập nghiệp ở những nơi khác
như: miền Nam, Lào Cai, Hải Phòng, Yên Bái, Thái Nguyên…
Từ khi có Đảng cộng sản lãnh đạo, con cháu và các gia
đình trong họ đã tích cực ủng hộ cách mạng như: nuôi dấu cán bộ, ủng hộ tiền, lương
thực, thực phẩm, tuyên truyền vận động cho cách mạng, đấu tranh với bọn phản động.
Khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 tham gia đi cướp chính quyền rồi tham gia vào chính
quyền và các tổ chức Cách mạng ở địa phương và sau đó tham gia kháng chiến chống
Pháp, như ông Cao Bỉnh Uân (Giáp phái) được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng Lao Động
Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đầu tiên của xã Hoành Nha; trực tiếp
làm Chủ tịch Liên Việt. Ông Cao Xuân Hạ (đời thứ 11, Ất phái) làm Chủ tịch Việt
minh, năm 1946 làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã (được Nhà nước công nhận là
cán bộ hoạt động Cách mạng trước năm 1945). Ông Cao Ngọc Bội (Nhâm phái) làm
Chi ủy viên BCH xã. Ông Cao Xuân Hào (Đinh phái) làm xã đội trưởng. Ông Cao Văn
Hoàn (Nhâm phái) làm Ủy viên Văn xã. Ông Cao Trần Quýnh (cành Thứ) làm Xã đội
trưởng. Ông Cao Trần Đinh (cành Thứ) làm Bí thư Đoàn thanh niên xã. Ông Cao Trần
Thíu (Giáp phái) làm đội trưởng Đội du kích xã, Liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến
chống Pháp. Ông Cao Ngọc Hòa (Ất phái) Chính trị viên Xã đội, Chủ tịch Mặt trận
Liên Việt. Ông Cao Văn Khánh (Nhâm phái) Xã đội phó, sau này làm Bí thư Đảng ủy
Xã Giao Tiến và nhiều ông khác... Nhiều ông tham gia lực lượng Công an, Quân đội
ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, như
ông: Cao Xuân Thủy (Ất phái), Cao Trần Cao (cành Thứ), Cao Quang Thạnh, Cao
Trung Ngọ, Cao Trần Lưu, Cao Trần Mai, Cao Xuân Thủy (Ất phái)... Phát huy truyền
thống cách mạng của dòng họ, nhiều người đã tiếp tục lên đường tham gia cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của
Tổ quốc.
Trải qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhiều người
đã chiến đấu dũng cảm hy sinh, xương máu, trong đó có khoảng 40 liệt sỹ và 80
thương binh. Nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong Quân đội, được phong
quân hàm cấp Tá. Nhiều người được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương các loại.
Trong họ có 4 bà mẹ được Nhà nước, phong tặng và truy tặng “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”.
Từ ngày Tổ quốc thống nhất, đất nước hơn 30 năm đổi mới, đời
sống của các gia đình trong họ từng bước được nâng cao. Về kinh tế hầu như
không còn hộ đói nghèo, nhiều gia đình đã khá giả có tích lũy, xây dựng được
nhà cửa khang trang, sắm sửa nhiều vật dụng có giá trị. Nhiều người trong họ đã
thành lập được công ty, doanh nghiệp tư nhân làm ăn phát đạt hiệu quả.
Cũng chính nhờ đời sống kinh tế phát triển nên con cháu
trong họ có điều kiện báo đáp công ơn Tổ tiên như: tổ chức đóng góp đầu tư xây
dựng từ đường, lăng mộ chung của dòng họ, của chi phái và mua sắm nhiề đồ thờ
cúng...
Sự nghiệp học hành
của con cháu trong họ ngày được phát triển.
Tính đến nay đã có khoảng 300 người có bằng Đại học, nhiều người có bằng Thạc sỹ,
có 6 Tiến sỹ, trong đó 2 người là Phó Giáo sư. Có những gia đình cả bố con, đều
là Tiến sỹ, Kỹ sư, Cử nhân. Có gia đình cả 3 thế hệ có tới trên 20 người có
trình độ Đại học và trên đại học... Họ đã có Quỹ khuyến học, để khuyến khích, động
viên khen thưởng thường xuyên hàng năm cho con cháu trong họ. Sự nghiệp học
hành từ lâu đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.
Văn hóa tâm linh báo đáp Tổ tiên: phục dựng lại được các
đội tế nam, tế nữ cùng với đầu tư trang phục đồ tế, đáp ứng tốt cho việc tế tổ
hàng năm, các đám hiếu trong họ và có dịp tham gia tế tổ Phúc Quảng ở Diễn Châu,
Nghệ An (2008), tế tổ Trần Nguyên Hãn ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc (2012 và 2017). Tổ
chức thường xuyên việc giỗ Tổ hàng năm, ngày Lễ Tết và ngày mồng 1 đầu tháng. Họ
Cao Trần đã lập các Đoàn rước kiệu Hậu Phật và kiệu trống, tham gia Lễ hội của
xã. Duy trì truyền thống mừng thọ (bái niên) các vị tới tuần tuổi 60, 70, 80...
vào dịp Tết Nguyên đán. Những người trong họ làm ăn xa quê cũng đã tập hợp tổ
chức thành các chi nhánh dòng họ ở các khu vực địa phương như: Hà Nội, Yên Bái,
Lao Cai, Vũng Tàu, Bạch Long, Giao Tân, Giao Thiện... động viên, thăm hỏi, giúp
đỡ nhau, mừng thọ người cao tuổi, tổ chức khuyến học, hướng con cháu về cội nguồn,
giáo dục truyền thống và tích cực tham gia đóng góp vào các công việc của dòng
họ, nhiều chi nhánh dòng họ nơi xa còn tổ chức giỗ Tổ vào ngày 18 tháng Giêng.
Từ khi kết nối thành công với tộc họ Trần Pháp Độ, Nghệ
An và dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, họ Cao Trần đã tích cực tham gia vào
nhiều hoạt động của các Ban liên lạc tộc họ Trần Pháp Độ, họ Trần Phúc Quảng
(Nghệ An) và Dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam. Họ ta đã thường xuyên giao lưu, thăm
viếng học hỏi, trao đổi thông tin và tham gia vào các hoạt động của dòng họ như:
xây dựng, khánh thành nhà thờ, giỗ tổ, tế tổ, hội nghị hội thảo, đóng góp Quỹ
xây dựng dòng họ Trần Nguyên Hãn...
Năm 2008 con cháu họ Cao Trần Giao Tiến, tiến cúng trên
80 triệu đồng, xây dựng từ đường tộc họ Phúc Quảng, xã Diễn Hồng Diễn Châu Nghệ
An, cùng chuông đồng và đồ thờ trị giá 40 triệu đồng. Tiến cúng tiền mua Kiệu ở
Đền thờ Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn ở Sơn Đông Lập Thạch Vĩnh Phúc, đóng góp
kinh phí các dịp tế tổ và quỹ hoạt động của dòng họ Trần Nguyên Hãn khoảng trên
50 triệu đồng.
Năm 2012 (và năm 2017), Đại hội đại biểu dòng họ Trần
Nguyên Hãn Việt Nam, nhiệm kỳ I (và nhiệm kỳ II). Cụ Cao Trần Bốn là thành viên
Hội đồng trưởng lão và 4 thành viên khác tham gia Thường trực Ban liên lạc dòng
họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam.
Tháng 3 năm 2017, tại Đại hội đại biểu (nhiệm kỳ II) dòng
họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, đã tôn vinh Họ Cao Trần Giao Tiến Giao Thủy Nam Định
là “Dòng họ Tinh hoa”
Họ Cao Trần đã có trên 330 năm trên mảnh đất ấp Hòe Nha, sau
là xã Hoành Nha và nay là xã Giao Tiến. Các thế hệ của dòng họ luôn có ý thức
ghi chép gia phả để truyền lại cho các thế hệ sau này biết về nguồn gốc của
mình, về sự nghiệp và truyền thống tốt đẹp của dòng họ.
Dù ở bất kỳ thời điểm nào, hoàn cảnh nào của lịch sử, các
thế hệ của dòng họ Cao Trần cũng đều có những đóng góp công sức xứng đáng vào
công cuộc xây dựng, phát triển dòng họ, quê hương và đất nước.
5 - XÂY DỰNG TỪ ĐƯỜNG, LĂNG MỘ.
Theo câu đối ghi ở từ đường, thì từ đường họ Cao Trần, Giao
Tiến được xây dựng vào đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa (1681- 1705), có
thể vào những năm cuối của niên hiệu Chính Hoà.
Năm 1787 sau một trận lũ lớn, sông Hồng đổi
dòng đổ thẳng ra biển mở ra cửa Ba Lạt. Thiên tai nặng nề, vì vậy toàn ấp lại
phải tập trung xây dựng lại lần thứ hai. Thời kỳ này từ đường họ cũng phải di
chuyển về đất mới ở Cựu Thượng. Tiếp theo lại chuyển về Thổ Nện, nay là thôn Bảo
Thắng. Năm Vua Tự Đức thứ 26, 27 (1873 - 1874) từ đường họ chuyển về vị trí hiện
nay (thôn Cộng Hòa), chính là khu đất của Cành trưởng, do ông Cao Đăng Phong (đời
thứ 7, Giáp phái) chủ trì xây dựng. Sau vụ Tam trưng điền án thắng lợi, họ Cao
ta đã được xã cấp cho 2, 2 sào đất (792 m2), để làm từ đường ở khu vực
Quán May, đầu thôn Cộng Hòa cũ. Mảnh đất này chưa kịp sử dụng, Cải cách ruộng đất
năm 1956 đã bị thu lại chia cho dân.
Từ
đường họ được trùng tu lần thứ nhất vào đầu thế kỷ XX, do ông Cao Đức Quảng (đời
thứ 9, Ất phái) phụ trách. Trùng tu lần thứ hai, do ông Cao Văn Huỳnh (đời thứ
9, Tân phái) phụ trách.
Cũng
vào thời gian này mộ Thái tổ Vô Ý được chuyển về sân từ đường họ và quy tập phần
mộ tổ tiên từ đời thứ 2 đến đời thứ 6, xây dựng thành một khu lăng tại nghĩa
trang Bách Linh thôn Quyết Tiến.
Năm
1988 từ đường họ được trùng tu, tôn tạo do ông Cao Xuân Thiệu, Cao Trần Hào, Cao
Trần Bốn (đời thứ 10) phụ trách. Năm 2012 đã dỡ bỏ từ đường được tôn tạo năm
1988, làm từ đường mới trên nền đất cũ, kết cấu tường chịu lực, cuốn vòm gạch đỏ
xi măng. Phần gỗ của từ đường cũ được dựng lại thành Nhà lưu niệm làm nơi hội họp.
Ông Cao Trần Bốn làm trưởng Ban kiến thiết cùng với sự đóng góp tiền của, sức
người của con cháu trong họ.
Từ
đường chính của dòng họ (còn gọi là nhà thờ họ Cả), nơi thờ tổ từ đời thứ Nhất
đến đời thứ 5 (riêng phái trưởng đến đời thứ 6) và 5 Chân linh Thái tổ đưa từ
quê cũ ra. Từ đường còn là nơi tổ chức tế, cúng tổ hàng năm, cầu xin của con
cháu trong dòng họ, cũng là nơi để bàn việc họ và tụ hội con cháu xa gần.
Năm
1995 các ông Cao Xuân Thiệu, Cao Xuân Hào, Cao Trần Bốn cùng với sự đóng góp của
các thế hệ con cháu trong dòng họ Cao Trần đã xây lại lăng mộ tổ từ đời thứ 2 đến
đời thứ 6, dựng đài tưởng niệm, bia lịch kỷ công, đây là nơi an nghỉ ngàn thu của
tiền nhân, công trình do ông Cao Uy Tín thiết kế và chỉ đạo thi công. Năm 2012 sau khi xây dựng từ đường, khu lăng mộ
họ Cả một lần nữa lại được tu sửa, sơn mới khang trang đẹp đẽ.
PHẦN THỨ HAI
PHẢ
HỆ HỌ CAO
- TRẦN TỪ
ĐỜI THỨ 1 ĐẾN ĐỜI THỨ 10
(Phần chi tiết)
1. CÀNH TRƯỞNG CÓ 9 PHÁI.
2. CÀNH THỨ CÓ 1 PHÁI.
3.
CÁCH ĐÁNH SỐ THỨ TỰ:
- Cụm số đầu tiên là thứ tự
các đời.
- Cụm số thứ hai là thứ tự
các cành.
- Cụm số thứ ba là thứ tự
các phái.
- Cụm số cuối cùng là số thứ
tự người trong một đời.
ĐỜI
THỨ NHẤT
Thái tổ Cao Quý Chúy
Bong, tự Vô Ý, Người sáng nghiệp, khai cơ ra dòng họ Cao - Trần, xã Giao Tiến,
huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Ngày giỗ: 18 tháng Giêng. Mộ được cải táng về sân từ đường họ Cả, thôn Cộng Hòa,
xã Giao Tiến (không rõ năm sinh, năm
mất).
Thái
tổ húy Bong (có bản dịch là Bông) gốc họ Trần, ở vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ,
huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Năm Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính
Hòa thứ 3 (1681-1705), tổ đưa người con trai Thứ hai húy Căn tự Công Bật đến ấp
Hòe Nha, huyện Giao Thủy trấn Sơn Nam Hạ (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao.
Tổ là người sáng nghiệp, khai cơ ra dòng họ Cao - Trần, xã Giao Tiến bắt đầu
từ đây.
Nguyên nhân việc Thái tổ đổi từ họ Trần sang họ Cao và chuyển cư từ châu Ái
ra ấp Hòe Nha đến nay vẫn đang được tiếp tục tìm hiểu.
Thái Bà Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín
Ngày giỗ: 29- 9 (không rõ năm sinh, năm mất).
Hai
ông bà sinh được 3 con trai, 4 con gái.
Ba con trai:
- Trưởng là Trần Chân Tính, tập tước Bình Luận Công,
mất sớm ở quê cũ. Ngày giỗ: 19 - 8;
- Thứ hai là Trần Công Bật, tập tước Dự Nghĩa Công,
theo Thái tổ ra ấp Hoè Nha, là Thái tôn họ Cao - Trần, xã Giao Tiến;
- Thứ ba tự Hiếu Lương, mất sớm ở quê cũ. Ngày giỗ:
23 - 8.
Bốn
con gái:
- Cao
Nhất Nương, hiệu Từ Thanh, còn gọi là bà Độ. Ngày giỗ: 3 - 7;
- Cao Nhị Nương,
hiệu Từ Tại. Ngày giỗ: 15 - 9;
- Cao
Tam Nương, hiệu Từ Minh, còn gọi là bà Thọ. Ngày giỗ: 24 - 8;
- Cao
Tứ Nương, hiệu Tiên Hoa Nương, còn gọi là bà Triều Hữu. Ngày giỗ: 4 - 2.
Những ngôi vị kể trên, mộ đều ở tại quê cũ, không rõ sự thể sinh thời như
thế nào. Chỉ biết rằng Thái tổ dặn lại và sau này được ghi trong phả lục.
ĐỜI THỨ HAI
Thái tôn Cao Quý Chúy Căn, tự Công Bật, thụy Viết Phúc Hậu.
Ngày
giỗ: 4 - 10. Mộ an táng tại lăng nghĩa
trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến. Tổ là con trai thứ hai tổ Vô Ý, được tập tước
Dự Nghĩa Công.
Năm
Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), tổ theo cha đến ấp Hòe Nha, trấn
Sơn Nam Hạ (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống
và đổi từ họ Trần sang họ Cao.
Năm
Quý Tỵ (1713), đời Vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 (1705 - 1719), tổ quy hậu Phật ở chùa thôn
Chính. Năm Mậu Tuất (1718), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14, tổ quy hậu Phật ở chùa
thôn Thượng. Thực hiện được ý cha là sâu rễ, bền gốc ở nơi quê mới, làm ăn,
sinh sống lâu dài cùng với các dòng họ khác, lúc bấy giờ ấp Hòe Nha là vùng đất
mới, dân cư còn thưa thớt.
Tổ
lấy 3 bà, sinh ra đông con nhiều cháu.
Họ Cao Trần ta bắt đầu từ Thái tôn Công Bật ngày càng phát triển và thịnh
vượng trên vùng quê mới.
Tổ tỷ Roãn Thị hàng Tam, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 6 - 11. Mộ quy lăng cùng với tổ ông.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 1con gái.
Hai
con trai:
- Trưởng
huý là Riệu, tự Trung Trực, mất sớm, Ngày giỗ: 5 - 7.
- Thứ
hai húy là Sâm, tự Công Cái.
Con
gái:
-
Thị Sinh, hiệu Từ Hạnh, Ngày giỗ: 16 - 6.
Thứ tỷ Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Duyên.
Ngày
giỗ: 19 - 7. Mộ bà không rõ ở đâu.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 1 con gái.
Hai
con trai:
- Trưởng
húy là Lộc, tự Công Tuyển.
- Thứ
hai húy là Lợi, đổi là Lại, còn gọi là Thâu.
Con
gái:
- Thị
Lựu, hiệu Từ Nghiên, còn gọi là bà Liêu, Ngày giỗ: 17 - 4
Tam tỷ Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Hiền.
Ngày
giỗ: 13 - 8. Mộ quy lăng cùng với tổ
ông.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 1 con gái.
Hai
con trai:
- Văn Nhí, tự Danh Tuy; Văn…, cả 2 mất sớm.
Con
gái:
- Thị Vãng, hiệu Diệu Ba, Ngày giỗ: 15 - 1
ĐỜI THỨ BA
CÀNH TRƯỞNG
3. 1.1 - Cao Chúy
Sâm, tự Công Cái, thụy Giảng Vũ.
Ngày
giỗ: 5 - 12. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ tổ Công Bật, tục gọi là cụ Tri. Xuất thân làm Trùm trưởng giáp, sau làm đến chức Tri sự.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Trang.
Ngày
giỗ: 9 - 7. Mộ quy lăng cùng với ông.
Tổ
mua hậu Phật chùa thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 2 con trai, 3 con gái.
Hai
con trai:
- Trưởng
là Bá Hân, tự Huệ Phương.
- Thứ hai là Trọng Viêm.
Con
trai nuôi:
- Húy
là Khoái, tự Hiếu Điền, mất sớm.
Ba
con gái:
-
Thị Phi, hiệu Từ Thục còn gọi là bà Bạ Nhị.
-
Thị Ổn, hiệu Từ Quý, còn gọi là bà Sở Khoản.
- Thị Ánh, hiệu Nhân Hậu,
đạo hiệu là Huyền Tiên, còn gọi là bà Sự Ly Kỳ (bà làm thầy phù thủy).
Bà
thứ Lê Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Nghiêm.
Ngày
giỗ: 25 - 5. Mộ không rõ ở đâu.
Bà
xã Hoành Tứ, quy hậu Phật chùa thôn Chính, không có con.
CÀNH THỨ
3.2.2 - Cao Công huý Lộc, tự Công Tuyển, hiệu Phúc Khang.
Ngày
giỗ: 17-12. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng bà hai tổ Công Bật, còn gọi là Châu Hành.
Sinh
thời ông làm Trùm trưởng giáp.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Từ Chiêu
Ngày
giỗ: 30 - 6. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà có 1 con trai
nuôi: Nguyễn Chỉnh.
Bà thứ Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Từ Ái.
Ngày
giỗ: 17 – 12. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Huý là Tuân, tự Danh Đạt.
Con
gái: Thị Huỳnh, hiệu Từ Mẫu, tục gọi là bà Đông.
Bà ba Vũ Thị hàng Tam, hiệu Nhu Chất.
Ngày
giỗ: 23 - 5. Mộ bà không rõ ở đâu.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Huý là Nhĩ, tự Danh Toại.
Hai
con gái:
-
Thị Dương, tục gọi là bà Đinh.
-
Thị Chiêm, hiệu Trinh Khiết, tục gọi là bà Chưởng Tự.
3. 2.3 - Cao
Công huý Công Lại, tự Phúc Độ.
Ngày
giỗ: 18-11. Mộ ông không rõ ở đâu.
Ông
là con trai thứ bà hai tổ Công Bật, huý là Lợi, đổi là Công Lại, còn có húy Thâu.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Từ Hiền.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, nuôi 1 con trai.
Hai
con trai:
-
Trưởng huý là Ấm, hiệu Trọng Ích.
- Thứ hai là Trọng Mối, đổi là Rật, tự Hiếu Niệm còn gọi
là Nhân, mất sớm. Ngày giỗ: 25 - 2.
Con trai nuôi: Huý là Tiêu, đổi là Nguyễn Đa.
ĐỜI
THỨ TƯ
CÀNH TRƯỞNG
4. 1.1 - Cao Quý Công húy Bá Hân, tự Huệ Phương, thụy Viết Đạt Đạo.
Ngày
giỗ: 24-1. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng cụ Công Cái. Sinh thời làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã, sau
làm đến Tri sự điện tiền.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, húy Chinh, hiệu Trường Đức.
Ngày
giỗ: 19 - 3. Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà
là con gái cụ Điện Quách họ Vũ.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 4 con gái.
Sáu
con trai:
- Trưởng
húy là Phác, tự Bá Tuân.
- Thứ
hai húy Ngụy, đổi là Trọng Chuân, tự Đức Trung.
- Thứ
ba húy là Tỵ, tự Trọng Cẩn.
- Thứ
tư húy là Tý, tự Trọng Thuyên.
- Thứ
năm húy là Tuất, tự Trọng Quang.
- Thứ
sáu húy là Thục, tự Thời Mại.
Bốn
con gái:
- Thị
Nghị, hiệu Đoan Thân, còn gọi là bà Điện Sự.
- Thị
Nghĩ, hiệu Diệu Tư, còn gọi là bà Đảng Hai.
- Thị
Cáy, hiệu Diệu Từ Quang, còn gọi là bà Tú Dương.
- Thị Soạn, hiệu Từ
Minh, còn gọi là bà Tú Kính chồng xã Lãng
Lăng.
4. 1.2 - Cao
Công huý Trọng Viêm, thuỵ Cung Ý.
Ngày giỗ: 10 - 4. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách
Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Công Cái, làm Trùm
trưởng giáp, được triều đình nhà Lê tấn tước: Nguyên tác sở sứ.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Từ Đoan.
Ngày
giỗ: 28 - 12. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 6 con gái.
Con
trai: Huý là Nghi (Đưa), tự Thời Trung.
Sáu
con gái:
- Thị Chỉnh, hiệu Đoan Thành, tục gọi là bà
Cai Đôn.
- Thị Cảnh, hiệu là Từ Nương, tục gọi là bà Tư
Miên.
- Thị Biển, hiệu Từ Xuân, tục gọi là bà Nghĩa.
- Thị Dậu, hiệu Từ Hoan, tục gọi là bà Rinh.
- Thị Niệm, hiệu Diệu Hiền, tục gọi là bà Cai
Tấn.
- Thị Hoa, hiệu Từ Tường, tục gọi là bà Trùm
Lưu.
CÀNH THỨ
4. 2.3 - Cao
Công huý Tuân, tự Danh Đạt, thuỵ Liêm Đoán.
Ngày
giỗ: 18 - 4. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai bà hai cụ Công Tuyển, còn có húy Trọng Đạt, tục gọi là Chánh Sở.
Ông được triều nhà Lê phong tước: Cai Thập lý Hầu.
Đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), sau biến cố
Ba Lạt năm 1787 (sông Hồng đổi cửa), làng xã định hình lần thứ hai, dân làng
Trà Lũ, huyện Xuân Trường vượt sông Sò đến tranh chiếm cánh đồng bãi Phù Sa, gần
500 mẫu ruộng của xã nhà. Ông cùng các ông trong họ: Cao Ngọc Cẩn, Cao Đức Mậu,
đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực và 15 ông nữa đại diện cho toàn xã tham
gia tố tụng lên trấn, tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế).
Kết quả đến năm Gia Long thứ 13, Giáp Tuất (1814), sau 12 năm kiên trì đấu
tranh gian khổ, đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà (xem Phù Sa điền án).
Bà Phạm Thị hàng Nhất, huý Nên, hiệu Từ
Hậu, đạo hiệu Huyền Trang
Ngày
giỗ: 12 - 7. Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là người xã Hoành Tứ.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 3 con gái.
Sáu
con trai:
- Trưởng huý là Bỉnh, tự Trọng Quỳ.
- Thứ hai huý là Son, tự Danh Tiêm.
- Thứ ba huý là Bảo, tự Trọng Tấn.
- Thứ tư huý là Phường, tự Hữu Đạo.
- Thứ năm huý là Lô, tự Viết Trung, mất sớm.
- Thứ sáu huý là Khản, đổi là Danh Văn.
Ba
con gái:
-
Thị Viên, hiệu Xuân Dung, gọi là bà Tổng Thúc Hai,
-
Thị Nhuế, hiệu Đức Hạnh, tục gọi là bà Tư Kỳ.
-
Thị Hợp, hiệu Thanh Dung, tục gọi là bà Trùm Tiên.
4. 2.4 - Cao
Công huý Nhĩ, tự Danh Toại, thuỵ Mẫn Đạt.
Ngày
giỗ: 3 - 6.
Ông
là con trai bà ba cụ Công Tuyển, còn gọi là Tú Xuyên. Ông đi lên rừng và không
thấy về nữa, sau này lấy ngày ông rời nhà ra đi: 3- 6, làm ngày giỗ.
Bà Cao Thị hàng Nhất, hiệu Liêm Trinh.
Ngày
giỗ: 14 - 4. Mộ bà không rõ ở đâu.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng huý là Tố, đổi là Thọ, sau đổi là ông Nhắn.
-
Thứ hai huý là Nhân, mất sớm.
-
Thứ ba huý là Bổng, mất sớm.
Hai
con gái:
-
Thị Miễn.
-
Thị Gội, hiệu Dung Hạnh, tục gọi là bà Vệ Cảnh.
4. 2.5 - Cao
Công Nhất lang, huý Ấm, tự Trọng Ích.
Ngày giỗ:
Ông
là con trai cụ Công Lại, còn gọi là Trùm Miên.
Bà Vũ Thị huý Nhiễu.
Ngày
giỗ: Ông mất, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Huý là Viết, hiệu Dũng Lực.
Con
gái: Thị Đễ, hiệu Từ Tường.
4. 2.6 - Cao
Công huý Nguyễn Đa, thuỵ Đôn Trực.
Ngày
giỗ:
Ông
là con nuôi cụ Công Lại, húy Tiêu, đổi là Nguyễn Đa, tục gọi là ông Nhiêu Đa. Ông
làm Trùm trưởng giáp.
Bà Nguyễn Thị hàng Nhất, hiệu Từ Chính.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 4 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng huý là Ba, tự Thanh Tú, mất sớm.
-
Thứ hai là Nguyễn Ứng.
Bốn
con gái:
-
Thị Nhuần, hiệu Dung Hoa.
-
Thị Rụt, hiệu Từ Dung, tục gọi là bà Bạ Hướng.
-
Thị Bài, hiệu Đoan Mẫn, tục gọi là bà Sự Kiến.
-
Thị Đạt, hiệu Từ Tín, tục gọi là bà Nhiêu Lộc.
ĐỜI THỨ
NĂM
CÀNH TRƯỞNG
5. 1.1 - Cao Quí Công húy Phác, tự Bá Tuân, thụy Trung
Chính.
Ngày giỗ: 23 - 4. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông là con trưởng cụ Huệ Phương. Sinh thời từng
làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã, sau có công được phong Thập lý hầu.
Khi đương chức, xã ta bị giặc Mèo (Miêu tặc)
đến quấy phá cướp bóc, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn giặc cướp.
Sau 7 ngày đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông có tinh thần trách nhiệm
cao, vì nghĩa quên mình, nêu tấm gương tiêu biểu trước nhân dân. Tuy ông đã mất
đi, nhưng tiếng thơm còn mãi, con cháu phồn thịnh, đời đời phát triển, nhớ đến
công đức kế thừa (lời án của ông Cao Vĩnh Phúc).
Bà Hoàng Thị húy Giáng, hiệu Đoan Chất.
Ngày giỗ: 4 - 7. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 2 con gái.
Sáu
con trai:
- Trưởng
húy là Rao, tự Đăng Dụng.
- Thứ
hai húy là Sỹ, tự Đức Mậu.
- Thứ
ba húy là Muông, tự Đức Giản.
- Thứ
tư húy là Phúc, hiệu Đức Tuấn.
- Thứ
năm húy là Nghị, tự Đức Tú.
- Thứ
sáu húy là Ruyên, đổi là Đức Thiệu.
Hai
con gái:
- Thị
Quyên, hiệu Từ Thuận, còn gọi là bà Tổng Trực.
-
Thị Thái, hiệu Từ Hòa, còn gọi là bà Sự Sỹ.
5. 1.2 - Cao
Công huý Nguỵ, tự Đức Trung, hiệu Trí Dũng.
Ngày
giỗ: 13 - 1. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ hai cụ Huệ Phương, húy Nguỵ, đổi là Trọng Chuân. Ông là Trùm
trưởng giáp, Nhiêu ấm xã. Thời vua Lê Chiêu Thống, có võ công được phong là
Lang tướng. Ông tham gia hộ giá Bắc hành và chỉ huy đội thuyền chiến.
Khi
sinh thời có Đinh Kim Ngô, thôn Chính, viên quan đương kim chức vị Tiên chỉ xã,
sợ ông Đức Trung có chức quan cao hơn về xã tranh mất chức vị, nên đã âm mưu
cùng với một viên quan ở Thái Bình giết hại ông trên đường về, khi thuyền tới
đoạn sông từ Ngô Đồng đến dốc Hoành Nha bây giờ. Sau vài ngày ông bị hại, Đinh
Kim Ngô lại chỉ huy gia đinh, định triệt hạ cả họ Cao. Nhưng các con cháu của họ
đã tự vệ thành công, trả thù và rửa hận cho ông.
Bà Phạm Thị hàng Nhất, hiệu Trinh Thuận.
Ngày
giỗ: 19 - 3. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 4 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng huý là Trị, tự Đức Dung.
-
Thứ hai là Đức Tiềm.
Bốn
con gái:
-
Thị Lương, hiệu Từ Nương, chồng ở Nam Điền.
-
Thị Điền, hiệu Từ Trúc, tục gọi là bà Nhiêu Sỹ.
-
Thị Thiện, hiệu Từ Thiện, tục gọi là bà Tường.
-
Thị Mỹ, hiệu Từ Mỹ, mất sớm.
5. 1.3 - Cao
Công huý Trọng Cẩn, thuỵ Đôn Cẩn.
Ngày giỗ: 26 - 7. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ ba cụ Huệ Phương, trước húy Tỵ đổi là Trọng Cẩn còn có húy Ngọc
Cẩn. Ông làm Trùm trưởng giáp, sau làm Tri sự.
Đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), sau biến cố
Ba Lạt năm 1787 (sông Hồng đổi cửa), làng xã định hình lần thứ hai, dân làng
Trà Lũ, huyện Xuân Trường vượt sông Sò, đến tranh chiếm cánh đồng bãi Phù Sa, gần
500 mẫu ruộng của xã nhà. Ông đã cùng với các ông trong họ: Cao Trọng Đạt (đời
thứ 4), Cao Đức Mậu (đời thứ 6), đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực và 15
ông nữa đại diện cho toàn xã tham gia tố tụng lên trấn, tổng trấn Bắc Thành (có
tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế).
Vụ
án kéo dài nhiều năm, kết thúc thắng lợi vào năm Gia Long thứ 13, Giáp Tuất
(1814), đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà (xem tài liêu Phù Sa điền án).
Bà Phạm Thị hàng Nhất, hiệu Từ Tĩnh.
Ngày
giỗ: 5 - 9. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 5 con gái.
Sáu
con trai:
-
Trưởng huý là Tôn, tự Bá Khiết.
-
Thứ hai huý là Cần, tự Trọng Tín.
-
Thứ ba huý là Tứ, tự Trọng Nhương.
-
Thứ tư huý là Bô, tự Trọng Kiển, (tức Khiển).
-
Thứ năm huý là Nhị, đổi là Trọng Mưu.
-
Thứ sáu tự Trọng Phái.
Năm
con gái:
- Thị Yên, hiệu Đoan Hậu, lấy người Nam Điền, Xuân Trường,
tục gọi là bà Trùm Khánh.
- Thị Nhạn, hiệu Từ
Lương, còn gọi là bà Binh Nghiễm.
- Thị Điệu, hiệu Từ
Luân.
- Thị Cận, hiệu Từ
Trung.
- Thị Suẩn.
5. 1.4 - Cao
Công huý Tý, tự Trọng Thuyên, thuỵ Đôn Lương.
Ngày
giỗ:.
Ông
là con trai thứ tư cụ Huệ Phương. Ông làm Trùm trưởng giáp, sau làm Tri bạ. Ông
lên vùng Thiên Thiện lấy tiền bán trâu, mà không về.
Bà Vũ Thị hàng Nhất huý Cẩm, hiệu Từ Đức.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 2 con
gái:
-
Thị Anh.
-
Thị Chích, tục gọi là bà Đằng, bà Yến, sinh ra ông Phó Hích.
5. 1.5 - Cao
Công huý Tuất, tự Trọng Quang, thuỵ Trực Nghị.
Ngày giỗ: 18 - 3. Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ năm cụ Huệ Phương. Ông làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất huý Oánh, hiệu Trinh Thục.
Ngày
giỗ: 18 - 8. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 2 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng tự Bá Hổ.
-
Thứ hai là Ngọc Đĩnh.
Hai con gái:
-
Thị Tào, hiệu Thanh Khiết, tục gọi là bà Đồ Khanh.
-
Thị Cam, hiệu Đoan Minh, tục gọi là bà Phó.
5. 1.6 - Cao
Công huý Thục, tự Thời Mại, thuỵ Khoan Trực.
Ngày giỗ: 24 - 7. Mộ quy lăng ở nghĩa trang Sân Rồng, Hùng Tiến.
Ông
là con trai thứ sáu cụ Huệ Phương, làm Trùm trưởng giáp và Xã đội trưởng. Ông mất,
bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai:
-
Trưởng huý Mè, tự Bá Nhất.
-
Thứ hai huý Quế, tự Bá Thái.
- Thứ
ba húy Chu, tự Bá Mẫn.
-
Thứ tư huý Văn Giỏi, mất sớm.
5. 1.7 - Cao
Công huý Nghi, tự Thời Trung, thuỵ Thiện Tính.
Ngày giỗ: 3 - 1.
Ông là con trai trưởng
cụ Trọng Viêm, còn có húy Đưa.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Diệu Trí.
Ngày
giỗ: 5 - 6.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 1 con gái.
Bốn
con trai:
-
Trưởng là Văn Tài
-
Thứ hai là Đức Nghệ.
- Thứ
ba là Thời Quyền.
-
Thứ tư là Đức Hoàn.
Con
gái: Thị Giáp.
CÀNH THỨ
5. 2.8 - Cao
Công huý Bỉnh, tự Trọng Quỳ, thuỵ Cương Trực.
Ngày
giỗ: 29 - 9. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng cụ Danh Đạt tục gọi là Chánh sở. Ông làm Khán thủ thôn và
Tri bạ xã. Ông tham gia vụ Phù Sa điền án cùng các tiên liệt trong họ và xã vào
khoảng năm (1803 - 1814). Sau 12 năm
đấu tranh gian khổ đã lấy được ruộng về cho xã nhà.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất huý Nghi, hiệu
Thanh Tĩnh.
Ngày
giỗ: 22 - 5. Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Viễn.
Hai
con gái:
-
Thị Dậu, hiệu Thanh Khiết.
- Thị Hạnh, hiệu Trinh
Minh.
Bà thứ Vũ Thị hàng Nhất
huý Hứa, hiệu Diệu Thận.
Ngày giỗ: 16 - 12.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Riễn.
Hai
con gái:
-
Thị Chỉnh, hiệu Thuận Ý.
-
Thị Thịnh, hiệu Chất Trực.
5. 2.9 - Cao Công huý Son, tự Danh Tiêm, thuỵ Dũng Nhuệ.
Ngày giỗ: 20 - 12. Mộ ông không rõ ở đâu.
Ông
là con trai thứ hai cụ Danh Đạt. Ông làm Tri sự, tham gia luyện binh xã, sau đó
tham gia đánh quân Thanh, hy sinh ở núi Tam Tầng, Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, huý Nự, hiệu Từ Lự.
Ngày
giỗ: 1 - 8.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai:
Năng An.
5. 2.10 - Cao Công huý Bảo, tự Trọng Tấn, thuỵ Viết Hiền Minh.
Ngày giỗ: 22 - 5. Mộ quy lăng ở nghĩa trang thôn Quyết
Tiến
Ông là con trai thứ ba
cụ Danh Đạt. Ông làm tuyển binh xã.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất
huý Ngỗng, hiệu Trinh Hoà.
Ngày giỗ: 5 - 1, thọ 84 tuổi. Mộ quy lăng cùng với
ông.
Bà là con gái cụ Huyện
Thừa họ Hoàng.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Chức.
Hai
con gái:
-
Thị Két, hiệu Từ Kiệm.
-
Thị Hạc.
5. 2.11 - Cao Công huý Phường, tự Hữu Đạo, thuỵ Viết Huyền Lục Minh Đạt
Tiên sinh.
Ngày
giỗ: 22 - 10. Mộ quy lăng ở nghĩa
trang thôn Quyết Tiến
Ông
là con trai thứ tư cụ Danh Đạt. Ông làm Thủ từ miếu thôn Chính và làm thầy Phù
thuỷ, nên gọi là thầy Phường.
Bà Ngô Thị hàng Nhất huý Liêm, hiệu Trinh Thục.
Ngày
giỗ:
Bà
người xã Lạc Nghiệp, huyện Xuân Trường, không có con.
Phần
mộ hoàn tôn.
5. 2.12 - Cao
Công huý Danh Văn, hiệu Mẫn Tiệp.
Ngày
giỗ: 18 - 1. Mộ quy lăng ở nghĩa trang thôn Quyết Tiến
Ông
là con trai thứ sáu cụ Danh Đạt. Trước húy là Khản, đổi là Danh Văn. Ông làm
nghề thợ mộc.
Bà Nguyễn Thị hàng Nhị huý Điện, hiệu Mỹ Hạnh.
Ngày
giỗ: Mộ quy lăng cùng với ông.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 2 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Trí, mất sớm.
-
Thứ hai là Văn Từ.
Hai
con gái:
-
Thị Hót, hiệu Từ Tường.
-
Thị Nhũ.
5. 2.13 - Cao
Công huý Nhắn, tự Danh Tế.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai cụ Danh Toại. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
5. 2.14 - Cao
Công huý Nguyễn Ứng, thuỵ Chính Trực.
Ngày
giỗ: 23 - 4.
Ông
là con trai cụ Nguyễn Đa, húy Lạt, đổi là Nguyễn Ứng.
Bà Vũ Thị hàng …, hiệu Viết Dung Hạnh.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh đuợc 1 con gái: Thị Quyên.
ĐỜI THỨ SÁU
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI TRƯỞNG (Giáp phái)
6. 1.1.1 - Cao Quý Công huý Dao, tự Đăng Dụng, hiệu Từ Đạo Tiên Sinh
Sinh năm: Kỷ Mão (1759).
Ngày mất: 6 - 9,
năm Kỷ Dậu (1849), thọ 91 tuổi.
Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông là con trai truởng cụ Bá Tuân. Thời triều nhà Lê ông
làm Trung lang tướng, sau chuyển sang hàng ngũ quân Tây Sơn của nguyễn Huệ, khi
triều Tây Sơn mất, ông bỏ về quê làm thuốc để lập nghiệp.
Lới án của Tổ biên tập thế phả 1869 như sau:
Ông Đăng Dụng thiên tư trung hậu, tuổi trẻ có ý chí nghị
lực, đi sâu vào nghiệp học cùng với các danh sỹ và liêu hữu, trải qua nhiều
khoa trường thi cử, nhưng không thành tựu. Về già ông đi sâu vào thuyết phong
thủy và y nghiệp tinh thông, chữa bệnh giúp đời, không đòi hỏi tiền công, để lại
công đức cho đời sau (cháu Cao Vĩnh Phúc kính ghi).
Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, một nhà nho yêu nước
danh vọng sinh thời, về thiết trướng tại xã năm 1869, viết cho họ đôi câu đối
liễn ký sự về thân thế, sự nghiệp của ông như sau:
“Kiếm đài cung thất, Lang tướng phong tiêu tứ thập tiền
vi địch cô thần, lưu thủ đan tâm hoàn tạo vật.
Dược phố thư trù, xá ông tâm sự, ngũ thập hậu thái bình
nhân thuỵ, ký tồn hồng phúc ấm hinh nhi”
Lược dịch như sau:
“Thanh gươm yên ngựa, cờ
tướng gió bay, bốn mươi năm trước, chút nghĩa cô thần, giữ tấm lòng son cùng tạo
hoá.
Gánh thuốc túi thơ, xá
nhân tâm sự, năm chục năm sau vì đời tận tuỵ, còn lưu hồng phúc để đời sau”.
Đôi câu đối tự sự trên đã tóm tắt đầy đủ về đạo đức thân
thế và sự nghiệp của Tổ vậy (cháu Cao Xuân Thiệu kính ghi).
Trước ông đã lấy một bà ở Diêm Điền, Thái Bình, sinh được
một con trai húy Lân bị mất tích. Năm 1995 mới được biết: do lũ lụt năm 1787 sông
Hồng đổi dòng, mở ra cửa Ba Lạt, cùng với binh lửa loạn ly, cụ bà và ông Lân lưu lạc ở
Thái Bình. Ngày nay con cháu ông Lân đã tìm về nhận họ. Ông Lân, tự là Dũng
Trí, định cư ở vùng Văn Lý, Hải Hậu, Nam Định và là cụ tổ dòng họ Cao - Trần ở
Hải Hậu, biệt chi của họ Cao - Trần, xã Giao Tiến.
Bà thứ Phạm Thị huý Diễn, quý hiệu Thành Trang.
Sinh năm: Đinh Hợi (1767).
Ngày mất: 14- 9 năm Mậu Thân (1848), thọ 82 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái út cụ Huyện họ Phạm thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 1 con gái.
Bốn con trai:
- Trưởng là Văn Khải, đổi Ngọc Triết.
- Thứ hai là Văn Biện, đổi Ngọc Oanh.
- Thứ ba là Văn Thân đổi Văn Thứ, sau đổi là Đăng Phong.
- Thứ tư húy Thử, sau cải tên là Quán.
Con gái:
- Thị Giám, lấy ông Nho Xao, người thôn Hoành Tứ.
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ HAI (Ất phái)
6. 1.2.2 - Nghiêm Đường Cao Quí Công húy Sỹ, tự Đức Mậu,
hiệu Mẫn Trực.
Sinh năm: Tân Tỵ (1761), niên hiệu Lê Cảnh
Hưng thứ 22,
Ngày mất: 1 - 8 năm Quý Mão (1843), Thiệu Trị thứ 3, thọ 83 tuổi.
Mộ quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết
Tiến.
Ông
là con trai thứ hai cụ Bá Tuân. Triều Lê ông làm Cai hợp Thập lý hầu xã, triều
Nguyễn Gia Long, làm Xã trưởng.
Đời
vua Gia Long năm thứ 2 (1803), sau biến cố Ba Lạt năm 1787 (sông Hồng đổi cửa),
làng xã định hình lần thứ hai, dân làng Trà Lũ, huyện Xuân Trường vượt sông Sò
đến tranh chiếm cánh đồng bãi Phù Sa, gồm 570 mẫu ruộng của xã nhà. Với tư cách
là Xã trưởng, ông đã cùng với Tổng trưởng Đinh Danh Trực, hai ông trong họ: Cao
Trọng Đạt, Cao Ngọc Cẩn và 15 ông nữa đại diện cho toàn xã tham gia tố tụng lên
trấn, tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế). Kết quả đến năm
Gia Long thứ 13, Giáp Tuất (1814), sau 13 năm kiên trì đấu tranh gian khổ, đã lấy
được ruộng về cho dân xã nhà (xem Phù Sa điền án).
Ông
còn có nhiều đóng góp xây dựng các công trình văn hóa, xã hội của địa phương để
lại cho đời sau như: tổ chức quyên góp và chủ trì đúc chuông đồng chùa Hưng An,
năm Kỷ Sửu 1829. Văn bia chùa Hưng An thôn Thượng là chứng tích (lời án Tổ biên
tập thế phả họ, cháu Cao Xuân Thiệu kính ghi)
Bà Vũ Thị hàng Tam, húy Sính, hiệu Đoan Thục
Nhu Nhân.
Sinh năm: Nhâm Thìn (1772) niên hiệu Lê Cảnh
Hưng thứ 33.
Ngày mất: 6
- 10 năm Tân Sửu (1841), Thọ 70 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông. Bà là con gái cụ
Châu Huyên họ Vũ.
Hai ông bà sinh được 4 con trai, 5 con gái.
Bốn
con trai:
- Trưởng
húy là Quyển, đổi là Đức Trứ.
- Thứ
hai húy là Thiệm, sau đổi thành Đức Nhuận.
- Thứ
ba húy là Miên, đổi là Đức Trạch.
- Thứ
tư húy là Kiên, đổi là Đức Thịnh.
Năm
con gái:
- Thị
Phiếm, hiệu Thục Huệ, lấy ông Nhang Điến họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị
Thông, lấy ông Hương Đạt họ Vũ.
- Thị
Thanh, lấy ông Lý Sảnh họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị
Nhị, hiệu Cần Kiệm, lấy ông Đồ Đôn họ Phạm, thôn Hoành Tứ.
- Thị
Tuyết, lấy ông Hiệp Thể họ Lê thôn Chính.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ BA (Bính phái).
6. 1.3.3 - Cao
Công huý Muông, tự Đức Giản, hiệu Chính Trực Hiền Lương.
Ngày
giỗ: 17 - 1.
Ông
là con trai thứ ba cụ Bá Tuân, triều nhà Lê ông làm Tri bạ.
Bà Mai Thị hàng Nhị, huý Hợp, hiệu Từ Thọ.
Ngày giỗ: 19 - 6.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 3 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Vặc (Đức Vậc)
-
Thứ hai là Đức Cảnh.
-
Thứ ba là Văn Kiển, đổi là Ngọc Hanh.
Ba
con gái:
-
Thị Phiến, hiệu Trinh Thục Mẫn, lấy ông Khán Úy.
-
Thị Ngoảnh, lấy ông Lý Khương, ở Lãng Lăng.
- ThịViễn,
hiệu Tinh Huy, lấy ông Binh Nghĩa cùng thôn.
6. 1.3.4 - Cao
Công huý Phúc, hiệu Đức Tuấn, thuỵ Hùng Lược.
Ngày
giỗ: 26 - 6.
Ông
là con trai thứ tư cụ Bá Tuân. Thời nhà Lê ông làm Tri bạ Vệ uý.
Ông
là người kiên nghị dũng cảm, vì việc nghĩa dám đương đầu với Đinh Kim Ngô, trả
thù cho chú và bảo vệ dòng họ. Sinh thời năm 1781, Trung lang tướng Cao Đức
Trung là chú, bị viên Tiên chỉ Đinh Kim Ngô sát hại. Sau vài ngày Đinh Kim Ngô
lại tập hợp gia đinh, định tiêu diệt họ Cao để trừ hậu hoạ. Lúc đó nhân đinh họ
ta còn ít, ấp lại mới chuyển cư lần thứ hai, mọi người còn trù trừ chưa quyết định,
duy có ông giầu lòng thương chú, quyết chí trọng nghĩa liều thân dẫn đầu, ra sức
chiến đấu, giết chết Đinh Kim Ngô, trả được mối thù cho chú và bảo vệ được dòng
họ trụ vững tại quê hương (lời án của Cao Vĩnh Phúc ghi).
Chi của ông đã chuyển cư lập ấp tại xã Duy Tắc,
tổng Hoành Thu, nay là xã Giao Tân.
Bà Vũ Thị hàng Tam, hiệu Từ Hoà.
Ngày giỗ: 25 - 4.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 3 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Cò, đổi là Thế Hương.
-
Văn Cốc, Văn Két, cả 2 mất sóm.
Ba
con gái:
-
Thị Vược, tục gọi là bà Đường.
-
Thị Sáo, tục gọi là bà Phó Nhân.
-
Thị Nhiên, chồng thôn Chính, tục gọi là bà Tú Tuần.
6. 1.3.5 - Cao Công huý Nghị, tự Đức Tú, thuỵ Hoà Nhu, Phụng Sắc Tú tài hầu.
6. 1.3.5 - Cao Công huý Nghị, tự Đức Tú, thuỵ Hoà Nhu, Phụng Sắc Tú tài hầu.
Ngày
giỗ: 26 - 2.
Ông
là con trai thứ năm cụ Bá Tuân. Ông làm Tri sự thời nhà Lê, sau tham gia luyện
binh được cấp bậc là Xuất đội, đến thời Gia Long được phong Tú tài hầu.
Ông
không có con trai, nhận Ngọc Hanh con ông Đức Giản làm con nuôi. Ông cúng vào Cành
trưởng một thửa ruộng tư thổ và cháu chú là Danh Quán cúng vào họ 6 miếng ruộng
làm kỵ điền. Năm 1956 cải cách ruộng đất, xã đã thu lại.
Bà Lê Thị huý Đích, hiệu Từ Minh.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 4 con
gái, 1 con trai nuôi.
Con
trai nuôi:
-
Ngọc Hanh, con trai ông Đức Giản.
Bốn
con gái:
-
Thị Trục, còn gọi là bà Dỵ.
-
Thị Điển, còn gọi là bà Uy.
-
Thị Tiền, còn gọi là bà Thoan.
-
Thị Huyền, còn gọi là bà Năng.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ TƯ (Đinh phái).
6. 1.4.6 - Cao
Công huý Đức Thiệu, thuỵ Viết Chuyên Cần.
Ngày
giỗ: 19 - 4.
Ông
là con trai thứ sáu cụ Bá Tuân, húy Ruyên, đổi là Đức Thiệu.
Bà Lê Thị hàng Nhất huý Song, hiệu Chính Tâm.
Ngày
giỗ: 14 - 5. Bà là con gái cụ Cai Lang
họ Lê.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 4 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là huý Bật, đổi là Danh Thời, rồi Danh Đặc.
-
Thứ hai là Danh Lạc.
-
Thứ ba là Danh Vuông.
Bốn
con gái:
-
Thị Tuyển, lấy ông Binh Đính họ Phạm.
-
Thị Xý, lấy ông Nho Nghiễm họ Vũ.
-
Thị Bao, còn gọi là bà Tấn.
-
Thị Ngạn, lấy ông ông Nhiêu Toản, họ Phạm thôn Chính.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ NĂM (Mậu phái).
6. 1.5.7 - Cao
Công huý Trị, tự Đức Dung, thuỵ Cương Lực.
Ngày
giỗ: 6 - 2.
Ông
là con trai trưởng cụ Đức Trung. Ông mất bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 5 con
trai:
-
Trưởng là Văn Hào, tự Đức Thuỷ.
-
Thứ hai là Đức Thạc.
-
Văn Miên, Văn Khán, Văn Khế, cả 3 đều mất sớm.
6. 1.5.8 - Cao
Công tự Đức Tiềm, thuỵ Lương Đức.
Ngày
giỗ: 7 - 2
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Trung.
Bà Lê Thị hàng Nhất, hiệu Từ Hoà.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Văn Cu, mất sớm.
Con
gái: Thị Triết, mất sớm.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ SÁU (Kỷ phái).
6. 1.6.9 - Cao
Công huý Tôn, tự Bá Khiết, hiệu Tôn Lương.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai trưởng cụ Trọng Cẩn.
Bà Phạm Thị hàng Nhất huý Ngoan, hiệu Từ Hoà.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 1 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Tiệm.
-
Thứ hai là Văn Chử, mất sớm.
-
Thứ ba là Văn Liêu.
Con
gái: Thị Oanh.
6. 1.6.10 - Cao
Công huý Cần, tự Trọng Tín, thuỵ Khắc Cần.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai tứ hai cụ Trọng Cẩn. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 4 con gái.
Con
trai: Văn Mặc, mất sớm.
Bốn
con gái:
-
Thị Hiên, lấy ông ông Khán Hoè họ Hoàng, thôn Thượng.
-
Thị Đông, lấy ông ông Khán Đạo, ở Cát Xuyên.
-
Thị Quất, mất sớm.
-
Thị Ích, lấy ông Nguyễn Cường.
6. 1.6.11 - Cao
Công huý Tứ, tự Trọng Nhương, thuỵ Chân Tinh.
Ngày
giỗ:
Ông
là con thứ ba cụ Trọng Cẩn.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Từ Ái.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 1 con
trai: Văn Riệc
6. 1.6.12 - Cao
Công huý Bô, tự Trọng Kiển, hiệu Lương Công.
Ngày
giỗ: 25 - 1.
Ông
là con thứ tư cụ Trọng Cẩn, còn có tên tự Trọng Kiển.
Bà Vũ Thị hàng Nhất huý Ruyên, hiệu Từ Cần.
Ngày
giỗ: 25 - 8.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Đờn.
-
Thứ hai là Danh Hữu.
-
Thứ ba là Văn Viễn.
Hai
con gái:
-
Thị Quyên, tục gọi là bà Đồ Thống.
-
Thị Quất, tục gọi là bà Giáo Hệ.
6. 1.6.13 - Cao
Minh Nông Đường, huý Trọng Mưu, tự Trọng Chí.
Ngày
giỗ: 28 - 6.
Ông
là con trai thứ năm cụ Trọng Cẩn, húy Nhị đổi là Trọng Mưu.
Bà Nguyễn Thị hàng Nhất huý Hiên, hiệu Cung Ý.
Ngày
giỗ: 21 - 11
Hai ông bà sinh được 1 con
gái, nuôi 1 con trai.
Con
nuôi: Văn Liêu, con ông Bá Khiết.
Con
gái: Thị Quất, lấy ông Văn Tế họ Vũ.
Bà thứ Nguyễn Thị hàng Nhất huý Tỉnh, hiệu Nhu Hoà.
Ngày
giỗ: 7 - 10. Bà là con gái cụ Nguyễn Tỉnh
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái:
Con
trai: Văn Giòn, mất sớm.
Con
gái: Thị Nắm, lấy ông Lý Mai họ Vũ.
6. 1.6.14 - Cao
Công tự Trọng Phái, thuỵ Trực Ngôn.
Ngày
giỗ: 28 - 7.
Ông
là con trai thứ sáu cụ Trọng Cẩn.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất húy Chì, hiệu Từ Thực.
Ngày
giỗ: 14 - 8.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 1 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Đuốc.
-
Thứ hai là Văn Đích.
Con
gái: Thị Thục, tục gọi là bà Tổng Toản.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ BẢY (Canh phái).
6. 1.7.15 - Cao
Công tự Bá Hổ, hiệu Ôn Lương.
Ngày
giỗ: 11 - 8. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng cụ Trọng Quang. Ông không có con trai, ông đi làm thợ mộc ở
Hải Dương, nhận ông Khớ về làm con nuôi.
Bà Lê Thị hàng Nhất huý Miễn, hiệu Từ Thuận.
Ngày
giỗ: 21 - 9. Mộ quy lăng cùng với ông
Hai ông bà sinh được 2 con
gái, 1 con trai nuôi:
Con
nuôi: Văn Khớ (Kha).
Hai
con gái:
-
Thị Miện, còn gọi là bà Trùm Tuy.
-
Thị Oanh, con gọi là bà Đồ Đàm.
6. 1.7.16 - Cao Công huý Ngọc Đĩnh, hiệu Lạc Đạo Tiên sinh.
Ngày
giỗ: 22 - 11.
Ông
là con trai thứ hai cụ Trọng Quang, tên huý Thục, đổi là Trọng Liêm, sau lại đổi
là Ngọc Đĩnh.
Bà Nguyễn Thị hàng Ngũ huý Nụ, hiệu Diệu Từ.
Ngày
giỗ:
Bà
là con gái cụ Cai Hoa họ Nguyễn.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai:
-
Trưởng là Văn Luyện.
-
Thứ hai là Văn Khâm.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ TÁM (Tân phái).
6. 1.8.17 - Cao
Công huý Mè, tự Bá Nhất, hiệu Trinh Tường.
Ngày
giỗ: 14 - 11.
Ông
là con trai trưởng cụ Thời Mại. Sinh thời ông làm Khán thủ.
Bà Lê Thị hàng Nhị, hiệu Lương Hạnh.
Ngày
giỗ: 22 - 4. Bà là con gái cụ Lê Bằng
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 3 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Cận.
-
Thứ hai là Văn Oánh.
-
Thứ ba là Đức Nhạ.
Ba
con gái:
-
Thị Hằng, tục gọi là bà Cậy.
-
Thị Diệu, lấy ông Lý Châu, xã Duy Tắc.
-
Thị Bí, lấy ông Lý Cử, xã Hoành Tứ.
6. 1.8.18 - Cao
Công huý Quế, tự Bá Thái, hiệu Thuần Hậu.
Ngày
giỗ: 7 - 11.
Ông
là con trai thứ hai cụ Thời Mại.
Bà Lê Thị hàng Nhất, hiệu Từ Hậu.
Ngày
giỗ: 12 - 10.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai:
-
Văn Điều, Văn Câu, cả 2 mất sớm.
Bà thứ Trần Thị hàng Nhị huý Sáu, hiệu Từ Tính.
Ngày
giỗ: 16 - 1.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Văn Vị.
Con
gái: Thị Tiêu, lấy ông Phó Thế, ở Đồng Phù.
6. 1.8.19 - Cao
Công huý Chu, tự Bá Mẫn, hiệu Viết Lương Tài.
Ngày
giỗ: 4 - 3.
Ông
là con trai thứ ba cụ Thời Mại.
Bà Lê Thị hàng Nhị, hiệu Từ Ý.
Ngày
giỗ: 13 - 8. Bà là con gái cụ Lê
Long.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 4 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Thắng.
-
Thứ hai là Ngọc Thịu.
-
Thứ ba là Ngọc Trầm.
Bốn
con gái:
-
Thị Thịnh, Thị Nhỏ, Thị Bảo, Thị Bốn.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ CHÍN (Nhâm phái).
6.1.9.20 - Cao Chúy
Văn Tài, tự Trọng Tài, hiệu Cần Cán.
Ngày
giỗ: 10 - 1. Ông là con trai trưởng cụ
Thời Trung.
Bà Lê Thị hàng Nhất, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ:
Ông, bà sinh 1 con gái, lấy ông Phạm Ry, thôn Trung.
6.1.9.21 - Cao
Công huý Đức Nghệ, hiệu Cân Trực.
Ngày
giỗ: 10 - 8, thọ 79 tuổi.
Ông
là con thứ hai cụ Thời Trung, huý là Bình, đổi là Đức Nghệ.
Bà Lê Thị hàng Nhất, hiệu Từ Lương.
Ngày
giỗ: 13 - 1.
Bà
là con gái cụ Lê Tụ, mất sớm không có con.
Bà thứ Lê Thị hàng Nhất, hiệu Từ Thận.
Ngày
giỗ: 16 - 10. Bà là con gái cụ Lê
Thoán.
Hai ông bà sinh được 5 con trai:
-
Trưởng là Văn Cảnh.
-
Thứ hai là Đức Quý.
-
Thứ ba là Đức Tình.
-
Thứ tư là Viết Tính, đổi là Ngọc Tỉnh.
-
Thứ năm là Đức Tươi.
6.1.9.22 - Cao
Công huý Thời Quyền tự Tôn Hạnh.
Ngày
giỗ: 1 - 8, thọ 69 tuổi.
Ông
là con trai thứ ba cụ Thời Trung, còn có húy Khải.
Sinh
thời ông làm Lý trưởng.
Bà Phạm Thị hàng Nhất, hiệu Thành Tâm.
Ngày
giỗ: Bà là con gái cụ Hương Ngũ họ Phạm, thôn
Trung.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Văn Ngọ.
Con
gái: Thị Phao, lấy ông Khoản họ Lê.
Bà thứ Nguyễn Thị hàng Nhị, hiệu Tĩnh Tín.
Ngày
giỗ: 16 - 10.
6. 1.9.23 - Cao
Công huý Đức Hoàn, hiệu Viết Chân Nhu.
Ngày
giỗ: 19 - 5.
Ông
là con trai thứ tư cụ Thời Trung.
Bà Lê Thị hàng Nhất huý Linh, hiệu Từ Mẫn.
Ngày
giỗ: 25 - 7. Bà là con gái cụ Lê Khả.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 6 con gái.
Con
trai: Đức Chuyên.
Sáu
con gái:
-
Thị Năm, Thị Khuê,
- Thị
Ngử, Thị Sinh,
- Thị
Trường, Thị Đen.
CÀNH
THỨ
6. 2.1.24 - Cao
Công huý Văn Viễn, hiệu Di Tính.
Ngày
giỗ: 1 - 6.
Ông
là con trai trưởng, bà cả cụ Trọng Quỳ.
Bà Nguyễn Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Trinh.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 1 con
gái, lấy
ông Binh Vĩ.
Bà thứ Lê Thị hàng..., hiệu Từ Dỵ.
Ngày
giỗ: 16 - 5.
Ông bà sinh được 1 Con
trai: Văn Cứ.
6. 2.1.25 - Cao
Công huý Văn Riễn, hiệu Đôn Chính.
Ngày
giỗ: 6 - 5.
Ông
là con trai bà hai cụ Trọng Quỳ.
Bà Mai Thị hàng Nhất, húy Tứ, hiệu Trinh Khiết.
Ngày
giỗ: 17 - 5.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Đức Khái.
Hai
con gái: Thị Cứ, Thị Hội.
Bà thứ Vũ Thị hàng Tam huý Duyên, hiệu Tân Thành.
Ngày
giỗ: 19 - 12.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai..
Ba
con trai:
-
Trưởng Văn Ư, đổi là Viết Khắc.
-
Thứ hai là Văn Nở, đổi là Văn Quang.
-
Thứ ba là Văn Tý, đổi là Viết Tửu.
6. 2.1.26 - Cao Công tự Năng An, thuỵ Viết Trung Tín.
Ngày giỗ: 13 - 3.
Ông
là con trai cụ Danh Tiêm. Ông làm Nhiêu ấm xã.
Bà Hoàng Thị hàng Nhị huý Cầm, hiệu Đoan Trinh.
Ngày
giỗ: 18 - 1.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 1 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Phố.
-
Thứ hai là Văn Cõn.
Con
gái: Thị Gián.
6. 2.1.27 - Cao
Công huý Văn Chức, tự Lực Nông.
Sinh
năm: Quý Hợi (1803).
Ngày mất: 5
- 9 năm Mậu Thìn (1868), thọ 66 tuổi.
Ông
là con trai cụ Trọng Tấn. Ông làm Hương dũng quản suất.
Bà Hoàng Thị hàng Nhị huý Triết, hiệu Từ Nhã.
Ngày
giỗ: 8 - 6, thọ 74 tuổi.
Bà
là con gái cụ Hoàng Tân.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 3 con gái.
Con
trai: Văn Sử, đổi là Ngọc Tước.
Ba
con gái:
-
Thị Đen, hiệu Từ Ái.
-
Thị Nhãn, tục gọi là bà Hoàng Vy.
-
Thị Biếc, tục gọi là Đồ Đường.
6.2.1.28 - Cao
Nhị Lang, huý Văn Từ, hiệu Lương Tài.
Ngày
giỗ: 20 - 3.
Ông
là con trai cụ Danh Văn. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Viết Trung, đổi là Đức Phu.
-
Thứ hai là Ngọc Toản, đổi là Ngọc Chấn.
-
Thứ ba là Văn Tý.
Hai
con gái:
-
Thị Cáy, lấy chồng ở An Phú, còn gọi là bà Lang Y.
- Thị Đỏ, mất sớm.
ĐỜI
THỨ BẢY
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI TRƯỞNG (Giáp phái).
7. 1.1.1 - Cao
Công huý Lân, hiệu Trí Dũng.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai trưởng cụ Đăng Dụng. Ông Lân là Trưởng Chi nhánh họ Cao Trần, xã
Giao Tiến ở vùng Hải Hậu, Nam Định. Sau thời gian lưu lạc, nay con cháu của ông
đã tìm được về gốc tổ xã Giao Tiến.
Bà Nguyễn Thị huý Ngoan.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được con
trai: Cao
Long Thức.
7. 1.1.2 - Cao
Công huý Ngọc Triết, thuỵ Liêm Cần.
Sinh
năm: Ất Mão (1795).
Ngày
mất: 26 - 3 năm Quý Tỵ (1833)
Mộ
quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng bà hai cụ Đăng Dụng, húy Khải sau đổi là Ngọc Triết. Ông làm
Trùm trưởng giáp, Sinh đồ thôn, người khoan hoà nhân hậu, thấy người có bệnh
ông tỏ lòng thương ra sức cứu chữa, thấy người khó khăn ông còn cho thêm tiền gạo
để chạy chữa thuốc thang. Ông là người đạo đức nhất mực, tiếc rằng ông chỉ được
hưởng có 39 tuổi.
Bà Lê Thị huý An, quý hiệu Tuyên Từ.
Sinh
năm: Tân Dậu (1801).
Ngày
mất: 18 - 3 năm Kỷ Mão (1879), thọ 79
tuổi.
Mộ qui lăng cùng ông.
Bà
là con gái cụ Cai Trung họ Lê.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 4 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Ngọc Cách, đổi là Ngọc Viện.
-
Thứ hai là Văn Chung, đổi là Ngọc Vũ.
Bốn
con gái:
-
Thị Ngọc, mất sớm.
-
Thị Thiềm, lấy ông Nhì Nhạ họ Vũ.
-
Thị Hiền, lấy ông Nhất Tạo họ Hoàng, thôn Thượng.
-
Thị Linh, lấy ông Nho Xuyến họ Hoàng, thôn Thượng.
7. 1.1.3 - Cao Nghiêm Đường huý Văn
Biện, tự Ngọc Oanh,
hiệu Đốc Hậu.
Sinh
năm: Mậu Ngọ (1798).
Ngày mất: 4
- 5 năm Giáp Thìn (1844), hưởng 47 tuổi.
Mộ
quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ hai bà hai cụ Đăng Dụng. Ông làm Trưởng giáp và Sinh đồ thôn.
Bà Lê Thị hàng Tam, hiệu Thanh Tín.
Ngày
giỗ: 3 - 4. Mộ qui lăng cùng
ông.
Bà
là con gái cụ Cai Trung họ Lê.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 2 con gái.
Sáu
con trai:
-
Trưởng là Văn Lâm, mất sớm.
- Thứ
hai làVăn Đàm, mất sớm.
-
Thứ ba là Ngọc Can, đổi là Đăng Ngạn.
-
Thứ tư là Thiệp, đổi là Ngọc Châu.
-
Thứ năm là Ngọc Uyển.
- Thứ sáu là Văn Bị, đổi là Danh Thăng, làm con nuôi ông Danh Quán.
Hai
con gái:
-
Thị Ngưng, lấy ông Tú Tuần, thôn Chính.
-
Thị Cao, lấy ông Giáo Hiếu, ở Giáp Đông.
Bà thứ Vũ Thị huý Mão, tự An Trinh, hiệu Diệu Tín.
Ngày
giỗ: 5 - 3. Mộ qui lăng cùng
ông.
Bà
là con gái cụ Vũ Văn Đàn cùng thôn.
Hai ông bà sinh được 2 con
gái:
- Thị Mong, lấy ông Phủ Khiêm họ Vũ.
- Thị Các, lấy ông Án Hợp họ Vũ.
7. 1.1.4 - Cao
Công huý Đăng Phong, tự Chu Liên, hiệu Cương Tắc.
Sinh
năm: Canh Thân (1800).
Ngày mất: 12 - 4
năm Ất Hợi (1875), thọ 76 tuổi.
Mộ
quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ ba bà hai cụ Đăng Dụng, húy Văn Thân đổi là Đăng Phong, trước
làm Hương mục, sau làm Lý trưởng.
Ông
tham gia biên lập địa bạ xã Hoành Nha, hoàn thành năm Minh Mạng thứ 10 (1829),
ngày 22 tháng 3, cùng với các ông: Lê Huy Tuấn (Cai tổng), Cao Đức Nhuận, Vũ
Đình Lựu, Cao Đức Trứ, Lê Huy Bỉnh.
Ông là người trung chính, có lòng truy tư báo
bản. Ông khởi xướng và cùng dòng họ xây
dựng từ đường họ Cả. Ông còn quyên và cúng tiền, bức ghi môn bên phải từ đường.
Ngôi nhà thờ nhiều lần trùng tu, nhưng vẫn còn lại di tích ba gian bái đường, lần
sửa 2012 mới bỏ hẳn, chuyển thành nhà lưu niệm để hội họp.
Bà Lê Thị huý Chi, hiệu Trang Tĩnh.
Sinh
năm: Nhâm Tuất (1802).
Ngày
mất: 12 - 10 năm Ất Dậu (1885), thọ
84 tuổi.
Mộ
qui lăng cùng ông.
Bà
là con gái cụ Cai Lạng họ Lê ông Mãn thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 5 con gái.
Bốn
con trai:
-
Trưởng là Đăng Doanh.
-
Thứ hai là Đăng Cử.
- Thứ ba là Đăng Long.
- Thứ tư là Văn Báng, mất
sớm.
Năm con gái:
- Thị Chì, lấy ông Bá
Trạch họ Nguyễn, xã Hoành Lộ.
- Thị Thiếc, lấy ông
Chánh Đại họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị Trâm, lấy ông Kép
Tảo họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị Thoa, lấy ông Cửu
Chẩn họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị Phiến, lấy ông Lý
Phiến họ Hoàng, thôn Thượng.
7. 1.1.5 - Cao Công huý Danh Quán, tự Huệ Hoà.
Sinh năm: Mậu Thìn (1808).
Ngày giỗ: 18 - 2 năm Nhâm Ngọ (1882), thọ 75 tuổi.
Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông là con trai thứ tư bà
hai cụ Đăng Dụng, húy Văn Thử đổi là Danh Quán. Ông làm Hương mục, mua Hậu phật
chùa Hưng An, thôn Thượng. Ông là người ôn hoà, cần kiệm, làm ăn giầu có, đến
tuổi trung niên mới xây dựng gia đình. Ông bà không có con, nhận nuôi Danh
Thăng, con anh trai là Ngọc Oanh và Lê Ngọc Quyết, thôn Chính (nuôi bên nội 1
người, bên ngoại 1 người).
Ông đã cùng với anh
trai là Đăng Phong tổ chức dòng họ xây dựng nhà thờ họ Cả và cúng một bức ghi
môn bên hữu từ đường.
Bà Lê Thị huý Trương,
hiệu Diệu Trinh Thuần.
Sinh năm: Quý Dậu (1813).
Ngày mất: 20 - 10 năm Quý Tỵ (1893), thọ 81 tuổi.
Mộ qui lăng cùng ông.
Bà là con gái cụ Hương
Bỉnh họ Lê, thôn Chính.
Hai ông bà c ó 2 con trai nuôi:
- Thứ nhất là Danh
Thăng.
- Thứ hai là Ngọc Quyết.
CÀNH TRƯỞNG -
PHÁI THỨ HAI (Ất phái).
7. 1.2.6 - Cao Chúy Đức Trứ, tự Công Nhân, hiệu Văn Đạt Tiên sinh.
Sinh năm: Đinh Mùi
(1787), niên hiệu Lê Chiêu Thống năm thứ 1.
Ngày mất: 29 - 12 năm
Giáp Ngọ (1834) niên hiệu Minh Mạng thứ 15,
hưởng 48 tuổi. Mộ quy
lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông là con trai trưởng
cụ Đức Mậu, húy Văn Quyến đổi là Đức Trứ. Ông thông minh, chữ viết tốt, theo
thi thư không đạt, làm Cai tổng lúc 20 tuổi.
Khi đương chức, ông cùng với cha là Cao Đức Mậu,
cộng sự với các ông trong xã, tiếp tục tham gia vụ án: làng Trà Lũ, huyện Xuân
Trường tranh chiếm gần 500 mẫu ruộng ở cánh đồng bãi Phù Sa, đến năm Giáp Tuất
(1814) đã lấy lại được số ruộng trên về cho xã.
Ông
tham gia biên lập Địa bạ xã Hoành Nha, hoàn thành năm Minh Mạng thứ 10 (1829), cùng
các ông: Lê Huy Tuấn (Cai tổng), Cao Đăng Phong (Xã trưởng), Cao Đức Nhuận (Trưởng
thôn), Hương Mục: Vũ Đình Lựu, Lê Huy Bỉnh. Ông viết Văn bia chuông chùa Hưng
An thôn Thượng.
Bà Hoàng Thị húy Dừa, hiệu Trinh Ý Nhu Nhân.
Ngày giỗ: 24 - 5, thọ 76 tuổi. Mộ qui lăng
cùng ông.
Bà là con gái cụ Bạ Đĩnh, họ Hoàng, thôn Cộng
Hòa.
Hai ông bà sinh được 4 con trai, 4 con gái.
Bốn
con trai:
- Trưởng
là Đức Chí.
- Thứ
hai là Đức Bằng.
- Thứ
ba là Đức Thiệm.
- Thứ
tư là Đức Tộ, mất sớm.
Bốn
con gái:
- Thị
Chuyên, lấy ông Chánh Đồng họ Vũ.
- Thị
Thép, lấy ông Bá Đệ xã Hoành Tứ.
- Thị
Tú, lấy làm hai ông Chánh Đồng họ Vũ.
-
Thị Giang, mất sớm.
Bà thứ Nguyễn Thị húy Nhị, hiệu Hoa Phương.
Ngày giỗ: 10 - 6. Mộ qui lăng cùng ông.
Bà là con gái cụ Biểu Tán họ Nguyễn, ở Quất
Lâm.
Hai ông
bà
sinh được 1con trai: Đức Nghị.
7. 1.2.7 - Cao
Công huý Đức Nhuận, hiệu Cần Chính Tiên sinh.
Ngày
giỗ: 1 - 2, hưởng 47 tuổi.
Mộ
quy lăng ở nghĩa trang Cựu Trung.
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Mậu. Ông làm Hương trưởng xã, Trưởng thôn. Ông tham
gia biên lập Địa bạ xã Hoành Nha, hoàn thành năm Minh Mạng thứ 10 (1829), cùng
các ông: Lê Huy Tuấn (Cai tổng), Cao Đăng Phong (Xã trưởng), Cao Đức Nhuận (Trưởng
thôn), Hương Mục: Vũ Đình Lựu, Lê Huy Bỉnh.
Bà Vũ Thị huý Chiên, hiệu Diệu Khang Nhu Nhân.
Ngày
giỗ: 24 - 3, thọ 73 tuổi. Mộ xã Hoành
Nhị.
Bà
là con gái cụ Huyện Trương họ Vũ, ở Giáp Đông.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 5 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Bật, đổi là Đức Hinh.
- Thứ
hai là Đức Mướp.
-
Thứ ba là Đức Sắn.
Năm
con gái:
-
Thị Đen, lấy ông Lý Quýnh, thôn Chính.
-
Thị Huệ, lấy ông Toản Tu, xã Nguyệt Lâm, Thái Bình.
- Thị
Mùi, lấy ông Thơ Phiên, thôn Chính.
-
Còn 2 nữa mất sớm
7. 1.2.8 - Cao
Công huý Đức Trạch, hiệu Cẩn Thận Phủ Quân.
Ngày
giỗ: 15 - 10. Mộ quy lăng ở nghĩa
trang thôn Quyết Tiến
Ông
là con trai thứ ba cụ Đức Mậu, làm Hương mục bản xã.
Bà Vũ Thị húy Thi, hiệu Trinh Mẫn Nhu Nhân.
Ngày
giỗ: 28 - 12, hưởng 46 tuổi. Mộ qui
lăng cùng ông.
Bà
là con gái cụ Xã Thụy, họ Vũ cùng thôn.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 7 con gái.
Sáu
con trai:
-
Trưởng là Đức Vương, đổi là Đức Ruệ.
-
Thứ hai là Đức My, đổi là Đức Rụ.
-
Thứ ba là Đức Nhã, đổi là Đức Uẩn.
-
Văn Quốc, Văn Cấm, Văn Liêm, cả 3 mất sớm.
Bảy
con gái:
-
Thị Đằm, lấy ông Nhiêu Thận, thôn Chính.
-
Thị Điệt, lấy ông Đồ Liêu họ Hoàng, thôn Thượng.
-
Thị Liên, lấy ông Bá Tiềm họ Mai, thôn Chính.
-
Thị Bút, lấy ông Giáp Ái, thôn Chính.
-
Thị Riệp, Thị Rụ, Thị Đỏ, cả 3 mất sớm.
7. 1.2.9 - Cao
Công huý Đức Thịnh, tự Long Phủ, hiệu Mẫn Nghị.
Sinh
năm: Mậu Thìn (1808).
Ngày
mất: 27 - 11 năm Kỷ Tỵ (1869), thọ 62
tuổi.
Mộ
quy lăng nghĩa trang Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ tư cụ Đức Mậu. Ông là người kiên nghị dũng cảm. Năm Bính Tuất
(1826), Minh Mạng thứ 7, khi đó ông mới 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa của Phan Bá
Vành từ Thái Bình đã chuyển sang Vùng Giao Thuỷ, Xuân Trường, sau đó bị tan rã
vào đầu năm 1827 tại xã Trà Trung, huyện Xuân Trường. Tàn quân của cuộc khởi
nghĩa tràn vào xã ta cướp bóc, ông đã tổ chức dân binh trong thôn chiến đấu bảo
vệ làng xã được an toàn.
Bà Lê Thị huý Trinh, hiệu Diệu Đức Nhu Nhân.
Ngày
giỗ: 27 - 7, thọ 62 tuổi. Mộ qui lăng
cùng ông.
Bà
là con gái cụ Hương Bỉnh họ Lê, thôn Chính.
Năm
Giáp Thân (1884) bà mua hậu phật, chùa thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái và nuôi 1 con trai.
Con
trai: Văn Giới, đổi là Đức Ý.
Con
nuôi: Đức Ngu, con ông Đức Chí.
Con
gái: Thị Sự, lấy ông Tú Hội, xã Thanh Khiết.
Bà thứ Lê Thị huý Bích, hiệu Diệu Khoan.
Ngày
giỗ: 19 - 4, thọ 73 tuổi. Mộ qui lăng
cùng ông.
Bà
là con gái cụ Hương Bính họ Lê, thôn Chính.
Năm
Giáp Thân (1884) bà mua hậu phật chùa thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 3 con gái.
Con
trai: Đức Tương.
Ba
con gái:
- Thị
Hạt, lấy Cử nhân Lê Nguyên Cát, thôn Chính.
-
Thị Liên, lấy ông Nhất Tánh họ Vũ cùng thôn.
-
Thị Kiều, lấy ông Bá Đỉnh, xã Hoành Lộ.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ BA (Bính phái).
7. 1.3.10 - Cao
Công huý Đức Vặc, hiệu Hiền Lương.
Ngày
giỗ: 11 - 11. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai trưởng cụ Đức Giản, phả họ ta ghi Đức Vậc.
Bà Vũ Thị huý Sinh, hiệu Từ Dụ.
Ngày
giỗ: 6 - 10. Mộ qui lăng cùng ông.
Bà
là con gái cụ Vũ Thi cùng thôn.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Nhạ.
-
Thứ hai là Đức Chuyển.
-
Thứ ba là Viết Khơi, kế tự ông Ngọc Hanh.
Hai
con gái:
-
Thị Chuyết, lấy ông Đồ Quang họ Trần, cùng thôn.
-
Thị Điều, mất sớm.
7. 1.3.11 - Cao
Công huý Đức Cảnh, tự Trọng Hành.
Ngày
giỗ: 25 - 2, hưởng 50 tuổi.
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Giản, làm Hương mục thôn.
Năm
1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1820 - 1840),
xẩy ra vụ bọn hào lý ở địa phương đã ba
lần trưng chiếm 150 mẫu ruộng công điền, làm tư điền (xem Tam trưng điền án),
ông cùng các ông trong họ ta: Cao Danh Hữu (đời thứ 7), Cao Đức Chí (đời thứ 8)
đã tham gia, do ông Tri bạ Vũ Thế Hào khởi xướng, cử người đến trấn (từ năm
1831 bỏ tổng trấn và đổi trấn thành tỉnh) và kinh đô Huế khiếu kiện. Phải mất
nhiều năm đấu tranh gian khổ đến năm
1841 mới giành được ruộng về dân.
Bà Vũ Thị hàng Tứ huý Tháo, hiệu Diệu Thọ.
Ngày
giỗ: 13 - 2, thọ 86 tuổi.
Bà
là con gái cụ Huyện Tương họ Vũ, ở Giáp Đông.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai mất sớm, 5 con gái, nuôi 1 con trai.
Con
trai nuôi: Đức Sen.
Năm
con gái:
-
Thị Tảo, lấy ông Tú Thước họ Vũ, thôn Thượng.
-
Còn 4 nữa mất sớm.
Bà thứ Lê Thị huý Nho, hiệu Phương Thực.
Ngày
giỗ: 24 - 7, thọ 73 tuổi.
Bà
là con gái cụ Nho Hiệp họ Lê, ở cùng thôn.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 3 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Vanh.
-
Thứ hai là Đức Duyệt.
-
Thứ ba mất sớm.
Ba
con gái:
-
Thị Suý, lấy ông Lê Hoàn cùng thôn.
-
Còn 2 nữa mất sớm.
7. 1.3.12 - Cao
Công huý Ngọc Hanh, hiệu Nguyên Phủ.
Ngày
giỗ: 22 - 7.
Ông
là con trai thứ ba cụ Đức Giản, làm con nuôi cụ Đức Tú. Ông đã xuất 160 quan tiền
mua hậu họ và gửi 9 miếng ruộng tư thổ làm ruộng giỗ hàng năm.
Bà Vũ Thị huý Công, hiệu Diệu Trí, Sắc tặng Tiết phụ.
Ngày
giỗ: 29 - 12, thọ 86 tuổi. Bà là con
gái cụ Vũ Lựu, cùng thôn.
Hai ông, sinh được 1 con
trai, nuôi 1 con trai.
Con
trai: Văn Nới, mất sớm
Con
trai nuôi: Viết Khơi, con trai ông Đức Vậc.
Ông
qua đời khi mới 24 tuổi. Bà ở vậy nuôi mẹ chồng, được nhà Nguyễn tặng sắc phong:
Tiết phụ và được triều đình thưởng bạc.
7. 1.3.13 - Cao
Công huý Thế Hương, hiệu Cường Lực.
Ngày
giỗ: 3 - 5.
Ông
là con trai trưởng cụ Đức Tuấn, trước húy Văn Cò, sau đổi là Thế Hương. Ông đi
khai hoang lập ấp ở vùng đất mới, thời triều đình nhà Nguyễn do ông Nguyễn Công
Trứ chỉ đạo và được bổ nhiệm làm Lý trưởng đầu tiên của xã Duy Tắc, sau làm Cai
tổng.
Bà Phạm Thị hàng Nhị huý Thừa, hiệu Diệu Kim
Ngày
giỗ: 1 - 7.
Hai ông, sinh được: 4 con
trai, 2 con gái.
Bốn
con trai:
-
Trưởng là Thế Vinh
-
Thứ hai là Đức Độ
-
Thứ ba là Ngọc Xưng
- Thứ tư là Văn Khoa.
Hai
con gái: Thị Hoa, Thị Nhài, cả 2 mất sớm.
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ TƯ (Đinh phái).
7. 1.4.14 - Cao
Công huý Danh Thời, hiệu Dỵ Trực.
Ngày
giỗ: 2 - 10.
Ông
là con trai trưởng cụ Đức Thiệu, húy là Bật, đổi Danh Thời (Danh Thì), sau lại
đổi là Danh Đặc.
Bà Hoàng Thị hàng Tam huý Vang, hiệu Diệu Ngữ.
Ngày
giỗ: 19 - 8.
Bà
là con gái cụ Trùm Nguyên họ Hoàng, thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 5 con
trai, 3 con gái.
Năm
con trai:
-
Trưởng là Văn Mấn, mất sớm.
-
Thứ hai là Viết Đàn (Viết Đần).
-
Thứ ba là Văn Thừa.
-
Thứ tư là Văn Độ, mất sớm.
-
Thứ năm Văn Chấp, mất sớm.
Ba
con gái:
-
Thị Ôn, lấy ông Hoàng Tụng.
-
Thị Hán, Thị Cõn, cả 2 mất sớm.
7. 1.4.15 - Cao
Công huý Danh Lạc, hiệu Hiền Lương.
Ngày
giỗ: 9 - 9, thọ 73 tuổi.
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Thiệu.
Bà Vũ Thị hàng Nhị huý Điều, hiệu Từ Tiệp.
Ngày
giỗ: 23 - 10. Bà là con gái cụ Đồ Bảo
họ Vũ.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Chiểu.
Hai
con gái:
-
Thị Suy, hiệu Từ Thiện, lấy ông Nhiêu Xà họ Hoàng, thôn Thượng.
-
Thị Kích, lấy ông Nguyễn Gia, thôn Quân Lợi.
Bà thứ Nguyễn Thị hàng Nhị huý Bàn, hiệu Từ Đoan.
Ngày
giỗ: 26 - 6, thọ 71 tuổi.
Bà
là người Đông Nhuế, tỉnh Thái Bình.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai: Văn Tiếp.
7. 1.4.16 - Cao
Công huý Danh Vuông, tự Hữu Dũng, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 9 - 12.
Ông
là con trai thứ ba cụ Đức Thiệu.
Bà Vũ Thị hàng Nhất huý Phỏng, hiệu Khoan Hoà.
Ngày
giỗ: 1 - 9. Bà là con gái cụ Vũ Văn Hồ.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Ất.
Hai
con gái:
-
Thị Liêu, lấy Thầy Ấn, họ Nguyễn.
-
Thị Tròn, lấy ông Vũ Tráng
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ NĂM (Mậu phái).
7.1.5.17 - Cao
Công huý Hào, tự Đức Thuỷ.
Ngày
giỗ: 12 - 3.
Ông
là con trai trưởng cụ Đức Dung. Ông làm luyện binh xã.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Từ Hoãn.
Ngày
giỗ: 23 - 7.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 3 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Đàm.
-
Thứ hai là Văn Lương, đổi là Đức Hải.
Ba
con gái:
-
Thị Tròn, lấy ông Kình ở Cát Xuyên.
-
Thị Lạc, lấy ông Xưng ở Liêu Đông.
-
Thị Tích, mất sớm.
7. 1.5.18 - Cao
Công huý Đức Thạc, hiệu Tài Nhu, tự Đăng Khải.
Ngày
giỗ: 19 - 10.
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Dung.
Bà Lê Thị hàng Lục húy Na, hiệu Thanh Tiết.
Ngày
giỗ: 16 - 9. Bà là con gái cụ Lê Bồn.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 2 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Đức Bạn.
-
Thứ hai là Văn Hán, đổi là Như Cương.
Hai
con gái:
-
Thị Ngân, lấy ông Xã Khuyến họ Hoàng, thôn Thượng.
- Thị Thìn, mất sớm.
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ SÁU (Kỷ phái).
7. 1.6.19 - Cao
Công huý Văn Tiệm, hiệu Đoan Cần.
Ngày
giỗ: 15 - 1, thọ 67 tuổi.
Ông
là con trai trưởng cụ Bá Khiết.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Từ Thanh.
Ngày
giỗ: 1 – 1. Bà là con gái cụ Trùm
Trân họ Vũ.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 4 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Viết Lạp.
-
Thứ hai là Văn Sính, đổi là Đức Mãn, làm con nuôi ông Văn Liêu.
Bốn
con gái:
-
Thị Ban, lấy ông Cai Trù họ Vũ.
-
Thị Sò, lấy ông Nhiêu Tuyển họ Lê.
-
Thị Tắc, lấy ông Lê An.
-
Thị Tiếp, mất sớm.
7. 1.6.20 - Cao
Công huý Văn Liêu, tự Đình Chử, hiệu Lương Công.
Ngày
giỗ: 22 - 2.
Ông
là con trai thứ ba cụ Bá Khiết. Ông làm con nuôi cụ Trọng Mưu.
Bà Lê Thị hàng Nhất, hiệu Huy Tào.
Ngày
giỗ: Bà là con gái cụ Nhiêu Hạc họ Lê.
Hai ông bà sinh được 1 con gái, nuôi 1 con
trai.
Con trai nuôi: Đức Mãn, con anh trai
là Văn Tiệm.
Con gái: Thị Hồng, lấy ông Lê Sắc,
thôn Chính.
7.
1.6.21 - Cao Công huý Văn Riệc.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai cụ Trọng Nhương. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 2 con
gái.
Hai
con gái:
-
Thị Ve, lấy ông Trịnh, ở Giáp Đông.
-
Thị Cáy, lấy ông Nguyễn Han. Ông Han mất bà đi tái giá.
7. 1.6. 22 - Cao
Công huý Văn Đờn, hiệu Huyền Cầm.
Ngày
giỗ: 12 - 11.
Ông
là con trai trưởng cụ Trọng Kiển. Ông định cư xã Duy Tắc, tổng
Hoành
Thu, nay là xã Giao Tân. Ông làm Lý trưởng.
Bà Phạm Thị hàng Tam, hiệu Rong Chính.
Ngày
giỗ: 18 - 4.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 2 con gái:
Bốn
con trai:
-
Trưởng là Văn Khang.
-
Thứ hai là Văn Khương.
-
Thứ ba là Văn Thưởng.
-
Thứ tư là Đức Tú.
Hai con gái: Thị Hoa, Thị Khiêm, cả 2
mất sớm.
7. 1.6.23 - Cao
Công huý Danh Hữu, tự Cương Đoán.
Ngày
giỗ: 12 - 10.
Ông
là con trai thứ hai cụ Trọng Kiển, còn có húy Vy. Ông tham gia luyện binh được
cấp bậc Ngũ trưởng.
Năm
1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1820 - 1840),
bọn hào lý ở địa phương đã ba lần trưng chiếm 150 mẫu ruộng công điền, làm tư
điền (xem Tam trưng điền án), ông cùng hai ông trong họ ta: Cao Đức Cảnh, Cao Đức
Chí và 25 ông nữa trong xã tham gia, do ông Tri bạ Vũ Thế Hào khởi xướng, cử
người đến trấn (từ năm 1831 bỏ tổng trấn và đổi trấn thành tỉnh) và kinh đô Huế
khiếu kiện. Phải mất 12 năm đấu tranh gian khổ
đến năm 1841 mới thu được ruộng về cho dân.
Bà Vũ Thị hàng Tứ, hiệu Từ Tường.
Ngày
giỗ: 16 - 9.
Bà
là con gái cụ Khán Huy họ Vũ, ở Giáp Đông.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Dương.
-
Thứ hai là Văn Đá, đổi là Văn Xuân.
-
Thứ ba, mất sớm.
Hai
con gái:
-
Thị Bướm, lấy ông Cai Trang họ Hoàng.
-
Thị Luân, lấy ông Nguyễn Tường.
Bà thứ Nguyễn Thị hàng…, hiệu Từ Thuận.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 1 con
gái: Thị
Luận, lấy ông Nguyễn Cồn.
7. 1.6.24 - Cao
Công huý Văn Viển, hiệu Cương Cần.
Ngày
giỗ: 17 - 8.
Ông
là con trai thứ ba cụ Trọng Khiển.
Bà Mai Thị hàng Nhị, hiệu Chân Thực.
Ngày
giỗ: 1 - 8.
Bà
là con gái cụ Mai Viên, thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 3 con gái.
Bốn
con trai:
-
Trưởng là húy Văn Gồ, (Văn Hiệt).
-
Thứ hai là Văn Thức (Văn Thái).
-
Thứ ba là Văn Ca (Văn Gia)
-
Thứ tư là Văn Cà.
Ba
con gái:
-
Thị Sắc, lấy ông Thừa, Lạc Nghiệp, Xuân Trường.
-
Thị Tôn, lấy ông Mai Tiếp, thôn Chính.
-
Thị…, mất sớm.
7. 1.6.25 - Cao
Công huý Văn Đuốc, hiệu Vinh Cung.
Ngày
giỗ: 5 - 12.
Ông
là con trai cụ Trọng Phái. Trước đi lập nghiệp ở Duy Tắc, sau trở về quê sinh sống.
Bà Phạm Thị hàng Nhất, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 26 - 4. Bà là con gái cụ Phạm
Văn Đa.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 3 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Khương.
-
Thứ hai là Văn Lãi.
Ba
con gái:
-
Thị Tránh, lấy người ở Thi Khoa.
-
Còn 2 nữa mất sớm.
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ BẢY (Canh phái).
7. 1.7.26 - Cao
Công huý Văn Khớ, hiệu Hoà Bình.
Ngày
giỗ: 15 - 11.
Ông
là người quê gốc Hải Dương, phả gốc ghi húy Văn Kha. Ông làm con nuôi cụ Bá Hổ.
Bà Nguyễn Thị hàng Nhị, hiệu Từ Hoà.
Ngày
giỗ: 11 - 8. Bà là con gái cụ Nguyễn Quản.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Sức.
-
Thứ hai là Văn Tôn.
-
Thứ ba là Văn Sở.
Hai
con gái:
-
Thị Khóm, lấy ông Nguyễn Ước.
- Thị
Sáo, lấy ông Lê Tình.
7. 1.7.27 - Cao
Công huý Văn Luyện, hiệu Minh Điền.
Ngày
giỗ: 9 - 12.
Ông
là con trai trưởng cụ Ngọc Đĩnh. Ông làm Hương mục bản xã.
Bà Hoàng Thị hàng Nhị huý Nắm, hiệu Lương Hộ.
Ngày
giỗ: 11 - 7.
Bà
con gái cụ Đồ Thứ họ Hoàng, thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 4 con gái.
Bốn
con trai: Một là Văn Hà, còn 3 nữa mất sớm.
Bốn
con gái:
-
Thị Á, lấy ông Hoàng Toán.
-
Thị Liên, lấy ông Phạm Lữ, thôn Chính.
-
Thị Vo, lấy ông Cả Cơ, ở Yên Cư, Xuân Trường.
-
Thị Ân, lấy ông Hoàng Rịnh.
Bà thứ Bùi Thị huý Lân.
Ngày
giỗ:
Hai ông bà sinh được 3 con
gái:
-
Thị Đài, lấy ông Nhất Tỉnh.
-
Thị Xuân, lấy ông Hoàng Thâm.
-
Thị Sâm, lấy ông Nguyễn Sinh.
7. 1.7.28 - Cao
Công huý Văn Khâm, hiệu Y Đạo Tiên sinh.
Ngày
giỗ: 8 - 2.
Ông
là con trai thứ hai cụ Ngọc Đĩnh. Ông làm Hương Nho.
Bà Vũ Thị hàng Tam huý Điệt, hiệu Dịch Thực.
Ngày
giỗ: 25 - 2.
Bà
là con gái cụ Hưng Đạt họ Vũ.
Ông, bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Văn Kinh, mất sớm.
Con
gái: Thị Là, mất sớm.
CÀNH
TRƯỞNG - PHÁI THỨ TÁM (Tân phái).
7. 1.8.29 - Cao
Công huý Văn Cận, hiệu Hữu Đạo, thuỵ Trung Lương.
Ngày
giỗ: 18 - 3, thọ 77 tuổi.
Ông
là con trưởng cụ Bá Nhất. Ông là Hương đồ, có nghề mộc.
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Từ Kiệm.
Ngày
giỗ: 11 - 12. Bà là con gái cụ Đồ Bảo
họ Vũ.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 4 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Đức.
-
Thứ hai là Ngọc Kiến.
- Thứ
ba Đức Thuật, tự Tiên Bồi
-
Thứ tư Văn Cu, mất sớm.
Bốn
con gái:
-
Thị Ếch, lấy ông Phạm Thưởng.
-
Thị Cõn, lấy ông Hoàng Tỵ.
-
Thị Hạt, lấy ông Roãn Ân.
-
Thị Đỏ mất sớm.
Bà thứ Vũ Thị hàng Tứ, hiệu Từ Trinh.
Ngày
giỗ: 22 - 10.
Bà
là con gái cụ Đồ Bảo họ Vũ.
Ông, bà sinh được 1 con trai.
Con trai: Đức Vạn.
7. 1.8.30 - Cao
Công huý Đức Nhạ, hiệu Cường Tráng.
Ngày
giỗ: 23 - 7.
Ông
là con trai thứ hai cụ Bá Nhất.
Bà Lê Thị…, hiệu Từ Trinh.
Ngày
giỗ: 14 - 1.
Bà
là con gái cụ Lê Mưu, thôn Chính.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai:
-
Trưởng là Văn Thuần.
-
Thứ hai là Văn Khoá, mất sớm.
Bà thứ Vũ Thị…, hiệu Từ Thuận.
Ngày
giỗ: Bà không có con.
7. 1.8.31 - Cao
Công huý Văn Vỵ, hiệu Chân Nhân.
Ngày
giỗ: 24 - 2.
Ông
là con trai cụ Bá Thái.
Bà Phạm Thị hàng Tam huý Nhiên, hiệu Từ Nhu.
Ngày
giỗ: 28 - 2. Bà là con gái cụ Phạm
Văn Cậy.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 3 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Viết.
-
Văn Bột và Văn Vãn, cả 2 mất sớm.
Bốn
con gái:
-
Thị Ang, lấy ông Giao, xã Hiệt Củ.
-
Thị Côi, lấy ông Vũ Lại cùng thôn.
-
Thị Thoi, lấy ông Lê Duyệt.
7. 1.8.32 - Cao
Công huý Đức Thắng, hiệu Lương Công.
Ngày
giỗ: 4 - 8.
Ông
là con trai trưởng cụ Bá Mẫn. Ông tinh thông nghề mộc, tự xưng là Lương công
(thợ giỏi).
Bà Vũ Thị hàng Nhất, hiệu Từ Ca.
Ngày
giỗ: 7 - 4. Bà là con gái cụ Vũ
Đương.
Ông, bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Ngôn.
Hai
con gái:
-
Thị Thoa, lấy ông Phó Biềng.
-
Thị Thục, lấy ông Sỹ.
7. 1.8.33 - Cao
Công huý Ngọc Thịu, tự Chân Ngọc, hiệu Dịch Hoà.
Ngày
giỗ: 17 - 7.
Ông
là con trai thứ cụ Bá Mẫn, tham gia Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm
Văn Nghị đi đánh giặc được cấp bậc Đội trưởng.
Bà Hoàng Thị hàng Tam, hiệu Từ Nương.
Ngày
giỗ:
Bà
là con gái cụ Hoàng Chiếu, thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 6 con
trai, 5 con gái.
Sáu
con trai:
-
Trưởng là Văn Lực.
-
Thứ hai là Văn Nghiên, mất sớm.
-
Thứ ba là Ngọc Đảo.
-
Thứ tư là Văn Non, đổi là Đức Thỉnh.
-
Thứ năm và thứ sáu, mất sớm
Năm
con gái:
-
Thị Năm, lấy ông Hoàng Cầm, thôn Thượng.
-
Thị Lục, lấy ông Vũ Khang.
-
Còn ba nữa mất sớm.
7. 1.8.34 - Cao
Công huý Ngọc Trầm, hiệu Công Nghiệp.
Ngày
giỗ: 13 - 1. Ông là con trai thứ ba cụ
Bá Mẫn. Ông tham gia Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đi
đánh giặc được cấp bậc Đội trưởng.
Bà Hoàng Thị huý Chồi, hiệu Từ Lan.
Ngày
giỗ: 13 - 11.
Hai ông bà sinh được 4 con
trai, 1 con gái.
Bốn
con trai:
-
Văn Tạo, Văn Quế, cả 2 mất sớm.
-
Thứ ba là Văn Nhu.
-
Thứ tư là Văn Trụ, mất sớm.
Con
gái: Thị Đoàng.
Bà thứ Lưu Thị hàng Nhị, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 19 - 6.
Bà
là con gái cụ Lý Kiến họ Lưu, xã Hiệt Củ.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 2 con gái.
Hai
con trai:
-
Thứ nhất là Văn Vạn.
-
Thứ hai là Ngọc Lới.
Hai
con gái:
-
Thị Truật, lấy ông Tâm, ở Nho Lâm.
-
Thị Soạn, lấy ông Dẩn, ở Nho Lâm.
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ CHÍN (Nhâm phái).
7. 1.9.35 - Cao Chúy Văn Cảnh
Ngày giỗ:
Ông là con trai trưởng của cụ Đức Nghệ
7. 1.9.36 - Chánh Bát phẩm Bách hộ, Cao Công huý Đức Quý,
hiệu Dụng Hoà.
Ngày
giỗ: 21 - 3.
Ông
là con trai thứ hai cụ Đức Nghệ, làm Hương mục.
Ông
theo Hoàng giáp Tam Đăng, Phạm Văn Nghị, ứng mộ Nghĩa dũng quân đánh giặc ở Hải
Dương, Hải Phòng có công được triều đình nhà Nguyễn sắc phong: Bát phẩm Bách hộ.
Bà Vũ Thị hàng Tứ, hiệu Từ Tâm.
Ngày
giỗ: 15 - 6.
Bà
là con gái cụ Vũ Mã, thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai:
-
Trưởng là Văn Lượng, đổi là Ngọc Cư.
- Thứ
hai húy là Mỹ, đổi là Văn Thức.
-
Thứ ba là Văn Nhượng, mất sớm.
Bà thứ Phạm Thị hàng Nhị huý Hạc, hiệu Tĩnh Nhất.
Ngày
giỗ: 13 - 12.
Bà
là con gái cụ Phạm Văn Ry, thôn Trung.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Cầu.
Hai
con gái:
-
Thị Cầm, lấy ông Lê Huy, thôn Thượng.
-
Thị Vẹt, lấy ông Chánh Huấn, xã Ngọc Tỉnh huyện Xuân Trường.
7.1.9.37 - Cao
Công huý Đức Tình, hiệu Trực Hoà.
Ngày
giỗ: 6 - 9.
Ông
là con trai thứ ba cụ Đức Nghệ. Ông nhận Văn Tâm con ông Ngọc Tỉnh làm thừa tự.
Bà Phạm hàng Tứ, hiệu Thành Tín.
Ngày
giỗ: 29 - 10.
Bà
là con gái cụ Phạm Đính, thôn Thượng.
Thừa tự: Văn Tâm con ông Ngọc Tỉnh
Hai ông bà sinh được 2 con
gái:
-
Thị Tiêm, lấy ông Vũ Yên, thôn Thượng.
-
Thị Toan, lấy ông Vũ Diễm, thôn Thượng.
7. 1.9.38 - Cao
Công huý Ngọc Tỉnh, hiệu Mẫn Đoán.
Ngày
giỗ: 21 - 4.
Ông
là con trai thứ tư cụ Đức Nghệ, húy Viết Tính, đổi là Ngọc Tỉnh, làm Hương đồ.
Bà Phạm Thị hàng Nhị húy Trà, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 29 -12. Bà là con gái cụ Hương Xuyên, thôn Trung.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 3 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Tâm, kế tự ông Đức Tình.
-
Thứ hai là Văn Bạt.
Ba
con gái:
-
Thị Mãi, lấy ông Đồ Bể, thôn Thượng.
-
Thị Quất, lấy ông Lê Khảm, thôn Thượng.
-
Thị Gái, lấy ông Đồ Hoằng, thôn Thượng.
Bà thứ Nguyễn Thị hàng Tam huý Phớn, hiệu Thục Thuận.
Ngày
giỗ:
Bà
là con gái cụ Nguyễn Tề.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 2 con gái.
Con
trai: Văn Ban.
Hai
con gái: Cả 2 mất sớm.
7. 1.9.39 - Cao
Công huý Đức Tươi, tự Trí Kính, hiệu Cần Cẩn.
Ngày
giỗ: 25 - 3.
Ông
là con trai thứ năm cụ Đức Nghệ. Ông làm Hương đồ và sau làm Khu trưởng.
Bà Phạm Thị huý Út, quý hiệu Vy Nhu.
Ngày
giỗ: 18 - 10. Bà là con gái cụ Phạm
Đính.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai, 5 con gái.
Hai
con trai:
-
Trưởng là Văn Cương, đổi là Danh Huyên.
-
Thứ hai là Trần Lộng.
Năm
con gái:
-
Thị …, lấy ông Đồ Quỹ họ Lê.
-
Thị…, lấy ông Nho Chỉ họ Lê.
-
Thị…, lấy ông Đồ Hiệp.
-
Thị…, lấy ông Nho Miên họ Vũ.
-
Thị …, lấy ông Trưởng Trạc họ Lê.
Bà thứ Nguyễn Thị…, hiệu Vy Diệu.
Ngày
giỗ: 19 - 12.
Hai ông bà sinh được 1 con
gái:
-
Thị…, lấy ông Trưởng Miến họ Lê.
7. 1.9.40 - Cao
Công huý Văn Ngọ, hiệu Đoan Hoà.
Ngày
giỗ: 15 - 5.
Ông
là con trai cụ Thời Quyền. Ông tham gia Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng
Phạm Văn Nghị đi đánh giặc được cấp bậc Đội trưởng.
Bà Trần Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Nhất.
Ngày
giỗ: 19 - 9.
Bà
là con gái cụ Trần Hậu, thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai:
- Trưởng
là Đức Kỷ.
-
Thứ hai là Như Cương
Bà thứ Phạm Thị hàng Nhị, hiệu Từ Ý.
Ngày
giỗ: 19 - 8.
7. 1.9.41 - Cao
Công huý Đức Chuyên, tự Trí Ý, hiệu Mẫn Tiệp.
Ngày
giỗ: 24 - 2.
Ông
là con trai cụ Đức Hoàn. Ông làm Cai mộ.
Bà Vũ Thị hàng Nhị, hiệu Đốc Thực.
Ngày
giỗ: 8 - 4. Bà là con gái cụ Vũ Vựng,
thôn Thượng.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai:
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Khái.
-
Thứ hai là Văn Đễ.
-
Thứ ba là Văn Chất.
Bà thứ Phạm Thị hàng Nhị, hiệu Từ Thiện.
Ngày
giỗ: 2 - 4.
Bà
là con gái cụ Lý Lẫm họ Phạm, thôn Trung.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 1 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Văn Đoàn.
-
Thứ hai là Văn Hợi.
- Thứ
ba là Văn Truyền.
Con
gái: Tục gọi là bà Cai Toại.
CÀNH THỨ
7. 2.1.42 - Cao
Cong Nhất Lang, húy Văn Cứ tự Hữu Nhân.
Ngày
giỗ: 23 - 1.
Ông
là con trai cụ Văn Viễn, mất sớm chưa có gia đình.
7. 2.1.43 - Cao
Công huý Đức Khái, hiệu Khắc Cần.
Ngày
giỗ: 23 - 5, thọ 70 tuổi.
Ông
là con trai cụ Văn Riễn.
Bà Phạm Thị hàng Nhị huý Tiết, hiệu Từ Hiếu.
Ngày
giỗ: 17 - 8. Bà là con gái cụ Phạm
Trinh, ở Giáp Đông.
Hai ông bà sinh được 3 con
trai, 2 con gái.
Ba
con trai:
-
Trưởng là Đức Trang.
-
Văn Bao, Văn Trợ, cả 2 mất sớm.
Hai
con gái:
-
Thị Nở, lấy ông Phạm Lữ, thôn Thượng.
-
Thị Bẳn, lấy ông Trần Hy, thôn Thượng.
Bà thứ Phạm Thị hàng Nhất huý Đen, hiệu Từ Trinh.
Ngày
giỗ: 30 - 3, thọ 64 tuổi.
Bà
là con gái cụ Phạm Môn, ở Giáp Đông.
Hai ông bà sinh được 1 con
gái:
-
Thị…, lấy ông Trần Bình, thôn Chính.
7. 2.1.44 - Cao
Công huý Viết Khắc.
Ngày
giỗ: 12 - 3.
Ông
là con trai trưởng, của bà hai cụ Văn Riễn, húy Ư, đổi là Khắc.
Bà Trần Thị huý Vằn.
Ngày
giỗ: 1 - 1.
Hai ông bà sinh được 2 con
trai:
-
Trưởng là Văn Khoa.
-
Thứ hai là Văn Nghiêm.
7. 2.1.43 - Cao
Công huý Văn Quang, hiệu Phác Thực.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai thứ hai, của bà hai cụ Văn Riễn.
Bà Mai Thị húy…
7. 2.1.46- Cao
Công huý Viết Tửu.
Ngày
giỗ: 13 - 3. Mộ quy lăng nghĩa trang
Bách Linh, thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai thứ ba, bà hai cụ Văn Riễn. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái.
Con
trai: Đức Gốm.
Con
gái: Thị Chuyển.
7. 2.1.47 - Cao
Công huý Văn Phố, hiệu Đôn Lương.
Ngày
giỗ: 19 - 11.
Ông
là con trai cụ Năng An. Ông mất sớm, bà đi tái giá.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai:
-
Văn Chép, đổi là Văn Phường.
7. 2.1.48 - Cao
Công huý Ngọc Tước, hiệu Cần Vụ.
Ngày
giỗ: 3 - 10, hưởng 56 tuổi.
Ông
là con trai cụ Văn Chức, húy Văn Sử, đổi là Ngọc Tước.
Ông
làm Lý trưởng.
Bà Lê Thị hàng Nhất huý Liên, hiệu Diệu Đài.
Ngày
giỗ: 22 - 2, thọ 64 tuổi. Bà là con
gái cụ Lê Khả.
Hai ông bà sinh được 7 con
trai, 3 con gái.
Bảy
con trai:
-
Trưởng là Văn Bản, đổi là Văn Mộc.
-
Thứ hai là Ngọc Hiến.
-
Thứ ba là Văn Đồng, mất sớm.
-
Thứ tư là Văn Truật, hiệu Trinh Thiên.
-
Thứ năm là Văn Luân, mất sớm.
-
Thứ sáu là Văn Dê, hiệu Mẫn Điện.
-
Thứ bảy là Văn Bớt, mất sớm.
Ba
con gái:
-
Thị Mạn, lấy ông Vũ Thông.
-
Thị On, hiệu Minh Thông Xuân Hoa Nương.
-
Thị Tròn, hiệu Thanh Lương.
7. 2.1.49 - Cao
Công huý Đức Phu.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai trưởng cụ Văn Từ, húy Trung, đổi là Đức Phu.
Bà Trần Thị hàng…
Ngày
giỗ:
Bà
là con gái cụ Trần Nguyên.
Hai ông bà sinh được 1 con
trai, 1 con gái, 1 con trai nuôi.
Con
trai: Văn Tuy, đổi là Đức Ổn.
Con
nuôi là: Văn Thiết,
Con
gái: Thị…, lấy ông Lê Khái.
7. 2.1.50 - Cao
Công huý Ngọc Toản, hiệu Quả Đoán.
Ngày
giỗ:
Ông
là con trai thứ hai cụ Văn Từ, húy Toản, đổi là Ngọc Chấn.
Bà Roãn Thị hàng…
Ngày
giỗ:
Bà
là con gái cụ Roãn Nguyên.
Hai ông bà sinh được 1 con trai: Đức Soạn
Kính thưa dòng họ Cao Trần! Cháu xin mạo muội có ý kiến: Theo trích gia phả của dòng họ là năm Qúy Hợi 1683 đời vua Hy Tông, Thái tổ Vô Ý từ Thanh Hoa đến Giao Thủy khai cơ đổi từ họ Trần sang họ Cao. Trong GIA PHẢ cổ có chép rõ triều vua nào chuyển đén không ạ. Nếu chỉ chép năm Qúy Hợi mà không trích rõ triều vua nào thì cháu được biết: Cũng năm Qúy Hợi 1623, Triều Lê Thần Tông (tức húy Lê Duy Kỳ 1619 - 1643), nhân lúc Trịnh Tùng ốm nặng, Trịnh Xuân đem quân nổi lên tranh ngôi chúa với vương thế tử Trịnh Tráng. Tháng 7 năm Qúy Hợi, sau khi giết Trịnh Xuân, Trịnh Tráng mang quân từ Đông đô (Thăng Long) về Thanh Hoa an táng cho cha và dẹp loạn (những quan tướng theo Trịnh Xuân). Việc đổi từ họ Trần sang họ Cao, từ 公 sang 功 là việc bất đắc dĩ nếu không phải là họa sát thân và tính chất cấp độ nhà nước.
Trả lờiXóaNếu mấy câu nhận xét chủ quan duy ý chí của cháu không phải chỗ nào, rất mong các bác bỏ qua cho cháu.
Cảm ơn bạn Trần Công Dương. Đúng ra như bạn hiểu. Trong bản Gia phả chữ Hán của họ Cao Trần đã ghi rõ: vào đời Vua Lê Hy Tông, hiệu Chính Hòa năm thứ 3 (1683). Chúng tôi tiếp thu và sửa lại câu này cho đầy đủ.,,
Trả lờiXóaCụ Tổng Trứ (7. 1.2.6 ) là con rể Tổ Bạ Đĩnh (chứ không phải Bạ Lĩnh), họ Hoàng thôn Cộng Hòa.
Trả lờiXóaVâng cảm ơn ông, có thể việc thu thập dữ liệu có sai sót. Chúng tôi đã sửa theo góp ý của ông.
Xóa