ĐỆ NHẤT THẾ TỔ NGHỆ -
TĨNH
Tả tướng
quốc Trần Nguyên Hãn. Đời thứ 12 của dòng họ Trần Việt Nam.
Trần Nguyên Hãn, sinh ngày: 1 - 2 - 1390
(Canh Ngọ), tại làng Kẻ Gốm, nay là làng Quan Từ Đa, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc.
Cuối đời nhà Trần,
Hồ Quý Ly lấn quyền, lũng loạn triều đình, lấn át vua Trần, tôn phái nhà Trần
bị dồn ép và phân hóa. Cụ Trần Nguyên Đán đã mất, gia đình ông Trần Thúc Quỳnh
là con trai thứ ba của ông, thực sự khó khăn. Ông Trần Thuần Đức, là con trai
độc nhất của ông Trần Thúc Quỳnh, đã đổi húy Trần Án, cùng vợ con chạy lên làng
Kẻ Gốm, làm nghề ép dầu và khai phá vùng đất hoang để sinh sống. Trần Nguyên
Hãn được sinh ra ở đây.
Hồ Quý Ly giết chết Trần Án và người con trai
đầu của ông. Vợ ông là bà Lê Thị Hoàn cùng người con nhỏ là Trần Nguyên Hãn
thoát nạn. Trần Nguyên Hãn được học hành chu đáo, là người thông minh và chăm
chỉ, có chí lớn, có tài cả văn lẫn võ. Năm 1415 ông đã tổ chức được lực lượng
nghĩa quân Rừng Thần chống lại quân Minh, hạ được thành Tam Giang. Nghĩa quân
do Trần Nguyên Hãn chỉ huy, đã làm chủ cả vùng Bạch Hạc, Phú Thọ. Năm 1418 Lê
Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ông đã đưa nghĩa quân đến tham gia ngay từ buổi ban
đầu, được Lê Lợi trao cho chức Tư đồ. Trong Kháng chiến chống quân Minh, ông là
người có nhiều chiến công xuất sắc, được Lê Lợi thăng nhiều chức vụ quan trọng:
Thái úy rồi Tả Tướng quốc.
Sau khi được
phong chức Tả Tướng quốc, Trần Nguyên Hãn xin hưu quan. Lê Lợi đồng ý và cấp
cho ông 100 mẫu ruộng, cùng một con ngựa. Ông trở về doanh sở cũ ở Sơn Đông.
Mười hai tháng sau, ông bị vu oan là có âm mưu phản lại triều đình. Vua Lê Lợi
hạ chiếu, gọi ông về triều đình khảo vấn. Trên đường về Thăng Long, tại bến
Đông Hồ, thuyền ra giữa sông, ông đã từ trầm. Sau khi ông mất, Lê Lợi đã hạ
chiếu bắt vợ, con ông về Thăng Long quản thúc.
Đến đời cháu Lê
Lợi, là vua Lê Nhân Tông, năm Diên Ninh thứ nhất (1454), đã xuống chiếu minh
oan cho Trần Nguyên Hãn, tha cho vợ, con và trả lại tài sản. Vua Lê Nhân Tông
còn truy phong cho ông là Phúc thần, Khai Quốc nguyên huân và sai lập miếu thờ
ông. Trần Nguyên Hãn Ngày giỗ: 26 - 10 -
1429 (Kỷ Dậu), lúc đó mới 39 tuổi. Mộ ông được an táng ở Rừng Thần, tổng Sơn
Bình, nay là huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ vào gia
phả của các chi họ ở Sơn Đông, Minh Nông, di tích các đền thờ, ở vùng Kẻ Gốm
thì ông có ba bà.
Bà cả: Người
làng Phong, xã Văn Quán.
Thuộc xã Sơn Đông, sinh được 1 con trai là
Trần Roãn Hữu, tự là Trung Khang. Trước khi ông xuống thuyền về Thăng Long, ông
cho bà và con trốn vào Rừng Thần. Sau trở lại Sơn Đông, chi họ hiện nay tại
Quan Tử và một bộ phận di cư sang Tuyên Quang, là hậu duệ của tổ Trần Roãn Hữu
Bà hai: Lê
Thị Tuyển, sinh được 2 con trai; Trưởng là Trần Trung Khoản; Thứ hai
là Trần Đăng Huy, tự là Trần Trung Lương. Khi ông xuống thuyền về Thăng Long, thì
bà và 2 con chạy sang làng Kẻ Nú, phủ Tâm Đới, huyện Phù Khang, trấn Sơn Tây.
Người con trai lớn tiếp tục đi tiếp và đổi ra họ Quách (theo gia phả chi họ
Trần thôn Hồng Hải, Minh Nông, Việt Trì). Trần Đăng Huy thì đổi sang họ Đào, hậu
duệ hiện nay là các chi họ ở vùng Bạch Hạc và Minh Nông, Việt Trì.
Bà thứ ba:
Có tên gọi là bà Chúa Lôi, ở làng
Xuân Lôi, tổng Văn Bình xưa. Bà và con trai theo ông về Thăng Long, khi thuyền
chìm thì người ta đã cứu được bà và con.
ĐỆ NHỊ THẾ TỔ NGHỆ -
TĨNH
(Đời thứ 13 của dòng họ Trần ở Việt Nam)
Thiết chế Lễ Tướng công Trần Pháp Độ, húy Quốc
Duy
Pháp độ
tướng công Trần Quốc Duy, Sinh năm: 1424, là con trai của Tả Tướng quốc Trần
Nguyên Hãn, (theo gia phả
viết vào thế kỷ thứ 17 của ông Trần Văn Lập, về dòng họ Trần Phổ Quang).
Trần Quốc Duy là
đồng tử được cứu tại bến Đông Hồ. Ông cùng với mẹ bị triều đình Lê Lợi đưa về
quản thúc tại Thăng Long. Năm 1454, đời vua Lê Nhân Tông (cháu Lê Lợi), niên
hiệu Diên Ninh thứ Nhất (1454 - 1459),
đã đại xá, minh oan cho Trần Nguyên Hãn và tha cho vợ con ông. Trần Quốc Duy
được Lê Nhân Tông vời vào triều làm quan với chức Thiết chế Lễ Tướng công. Năm
Canh Dần (1470), đời vua Lê Thánh Tông, hiệu Hồng Đức nguyên niên, Trần Quốc
Duy hưu quan, đưa vợ và 3 con trai về Tống Sơn, Thanh Hóa. Ở đây được 6 năm, ông
để bà và Trần Đạo Tín ở lại. Ông đưa Trần Công Sủng và Trần Thiện Tính tiếp tục
đi vào Nghệ An. Ông chọn chùa Liên Hoa, làng Phì Cam dừng chân, làm ăn sinh
sống. Sau thời gian ổn định, ông cho Công Sủng trở lại Thanh Hóa vào ở chùa Sải,
thôn Kim Cốc, xã Mai Lân, huyện Tĩnh Gia. Sau ngày Thiện Tính trưởng thành, ông
tổ chức khai hoang, lập ấp ra xứ Nương Mao (nay là vùng đất Đông Bắc xã Vĩnh
Thành, huyện Nhân Thành và xã Nam Hợp, huyện Yên Thành). Ông cùng con là Trần
Thiện Tính về ở làng Hào Kiệt, xứ Tường Lai, ở đây ông làm thông gia với tướng
Lê Sơn, hỏi bà Lê Từ Phúc cho ông Trần Thiện Tính.
Khi Trần Quốc Duy
qua đời, mộ được an táng ở xứ Tường Lai.
Bà là: Lê
Thị Từ Quang. Ông bà sinh được 3 người con trai:
-
Con trưởng là Trần Công Sủng, các chi họ hậu duệ hiện nay ở các xã phía Nam
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa và các xã phía Bắc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An. Nhà thờ chi trưởng ở Kim Cốc, Mai Lâm, Thanh Hóa. Còn có một chi có tông
tích của dòng họ Trần Công Sủng, chi họ thờ tổ Trần Công Mạc, thôn Trung Xá, xã
Vĩnh Thành.
- Con trai thứ
hai là Trần Đạo Tín, các chi họ hậu duệ hiện nay lưu cư ở Tống Sơn (nay là Nga
Sơn, Hậu Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Còn một số chi họ mới phát hiện dấu tích dòng
Trần Đạo Tín, là các chi ở Cầu Đục, Diễn Trường, Diễn Châu và Nhân, Nhân Thành,
Yên Thành.
- Con trai thứ ba
là Trần Thiện Tính, tục hiệu là ông Chân Thường, sinh hạ ra trực hệ dòng họ
Trần Nguyên Hãn ở Nghệ- Tĩnh
Nhà thờ Trần Quốc
Duy đã được chính thức đưa từ Phú Điền, Nhân Thành về Đan Trung, Diễn Thăng đã
được 300 năm. Nhà thờ Pháp Độ Tướng công, Trần Quốc Duy ở Đan Trung, đã được
nhà nước cấp bằng công nhận là Di tích Lịch sử, Văn hóa và Cách mạng, ngày: 27-
5 - 1997. Có nhiều chi họ đã lập nhà thờ Pháp Độ ở Phú Hữu, ở đây có sắc phong:
Pháp độ Trung đẳng thần, năm Khải Định thứ 2, Đinh Tỵ (1917).
Mộ của tổ Trần
Quốc Duy táng ở xứ Tường Lai, Hào Kiệt, nay thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An. Mộ tổ bà Lê Từ Quang hiện ở Tống Sơn, Thanh Hóa.
ĐỆ TAM THẾ TỔ NGHỆ -TĨNH
(Đời thứ 14 của dòng họ Trần ở Việt Nam)
Thế Trần Thiện Tính, húy Khương, hiệu là ông
Chân Thường.
Tổ bà là
Lê Thị Từ Phúc, hiệu bà Chân Thường.
Hai ông bà sinh được 3 con trai:
- Trần Chân Tịch.
- Trần Chân Tính
- Trần Chân Thiên.
Thời chiến tranh
Lê, Mạc (1527 - 1533), ông đưa bà và 3 con chạy sang Phúc Điền, tiếp theo ông
lại đưa ra ở Bàng Hòa quán, Hoàng Mai tự, ở đây ông phân cư các con. Ông Trần
Chân Tịch khoảng 16 - 17 tuổi về ở chùa Bổn, làng Dàn, xã Đông Tháp (nay là xã
Diễn Hồng, huyện Diễn Châu). Ông Trần Chân Thiên, gửi làm con nuôi ông họ Vũ thôn
Diệu Ốc, xã Giai Lạc (chợ Mõ), nhưng không đổi họ. Ông, Bà cùng người con thứ
hai là Trần Chân Tính ở lại Hoàng Mai. Sau lại chuyển đến chùa Mai Nữ, làng Bầu
Quán, xã Yên Hậu (nay là xã Diễn Lâm, huyện Diễn Châu) và ông bà Chân Thường
mất ở đó.
Ông Huyền Linh (tức Trần Chân Thiên), là con
thứ ba giỏi về địa lý, đã xin anh cả đưa mộ bố mẹ về song táng ở xứ Cồn Chu, trên
xứ đồng của họ Trần ở Giai Lạc. Con cháu dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ -Tĩnh đã
tổ chức xây lăng cho hai tổ tại cồn Chu. Khánh thành ngày: 14 - 7- 1999, năm Kỷ
Mão. Giỗ ông bà Chân Thường hợp kỵ vào ngày: 14 - 3, tại nhà thờ chi Trưởng, dòng
Trưởng, thôn Đông Tháp, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
ĐỆ TỨ THẾ TỔ NGHỆ - TĨNH
(Đời thứ 15 của dòng họ Trần ở Việt Nam)
CHI TRƯỞNG
Tổ Trần
Chân Tịch, húy Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm.
Tổ bà là
Hoàng Thị Tâm.
Ông Ngày giỗ: 23- 8, giỗ hợp kỵ cả ông, bà vào ngày: 27- 3.
Hai ông bà sinh được 4 con trai, được
mấy con gái không rõ, nhưng cả dòng họ Trần Chân Tịch đều thờ bà cô tổ Trần
Quế Hoa Nương. Dòng trưởng Trần Chân Tịch, có trên ba mươi chi họ lớn
nhỏ, đã tìm thấy phần lớn ở ven theo trục đường quốc lộ 1A đổ về phía biển từ
miền Nam huyện Quỳnh Lưu đến huyện Nghi Lộc.
- Con
trai trưởng: Trần Công Ngạn, ở Làng Thọ An. Đến nay đã tìm ra chi họ
hậu duệ của tổ Trần Công Ngạn, hiện đang định cư xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định và đã đổi từ họ Trần thành họ Cao Trần.
- Con
trai thứ hai: Trần Phúc Thọ. Ông bà Thọ sinh được: Trần Thủ Hạnh, Trần
Đắc. các chi họ này hiện nay ở hầu hết các huyện Diễn Châu, huyện Yên Thành, huyện
Nghi Lộc.
- Con
trai thứ ba: Trần Chân Tâm. Ông Chân Tâm về xã Đông Lũy, nay là xã Diễn
Phong, vào khoảng năm 1570, làm nghề dậy học và lấy bà Phạm Từ Khoan, đẻ ra
Trần Chính Đạo.
- Con
trai thứ tư: Trần Danh Di. Con trai của ông Trần Danh Di là: Hoàng Giáp
Trần Danh Dĩnh. Hậu duệ hiện xã Quỳnh Diễn, huyện Quỳnh Lưu.
Mộ tổ Trần Chân
Tịch được an táng ở xóm Xuân Tháp, xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Nhà thờ tổ ở chi trưởng thôn Đông Tháp, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh
Nghệ An.
TÊN ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH
TỈNH NAM ĐỊNH, HUYỆN
GIAO THỦY VÀ XÃ GIAO TIẾN
QUA CÁC THỜI KỲ.
TỈNH
NAM ĐỊNH
- Thời kỳ nhà Lý: phủ Hải Thanh.
- Thời Trần Thái Tông: phủ Thiên Thanh.
- Năm 1262, Thần Thánh Tông, đổi là phủ
Thiên Trường.
- Năm 1407, thời nhà Minh đô hộ: phủ
Phụng Hóa.
- Thời Lê Lợi, nằm trong Nam Đạo.
- Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đời vua
Lê Thánh Tông: thừa tuyên Thiên Trường.
- Năm 1469: thừa Tuyên Sơn Nam.
- Thời Hồng Đức (1470-1497): trấn Sơn
Nam.
- Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), trấn Sơn
Nam chia thành 2 lộ. Nam Định thuộc lộ Sơn Nam Hạ (gồm các phủ: Tiên Hưng, Thái
Bình, Kiến Xương, Thiên Trường, Nghĩa Hưng).
- Thời Tây Sơn: trấn Sơn Nam Hạ.
- Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), đổi thành
tỉnh Nam Định, gồm: 4 phủ, 18 huyện.
- Sau khi Pháp chiếm xong Bắc Kỳ (1890),
tách phủ Kiến Xương, phủ Thái Bình thuộc tỉnh Nam Định, cộng với phủ Thần Khê
tỉnh Hưng Yên, thành lập tỉnh Thái Bình.
- Ngày 17-10- 1921, thành lập thành phố Nam
Định.
- Năm 1926, tỉnh Nam Định có 2 phủ, 7
huyện, 78 tổng, 708 xã, (riêng thành phố Nam Định có 10 phường). Từ đấy tỉnh Nam
Định có địa danh cơ bản như hiện nay.
- Trong kháng chiến chóng Pháp, Nam Định
là 1 trong 10 tỉnh thuộc Liên khu III, gồm: 9 huyện, 158 xã.
- Ngày 21-4-1965, tỉnh Nam Định sáp nhập
với tỉnh Hà Nam thành tình Nam Hà.
- Ngày
24-12-1975, tỉnh Nam Hà sáp nhập với tỉnh Ninh Bình thành tình Hà Nam Ninh.
- Ngày 26-12-1991, tách tỉnh Hà Nam Ninh
thành 2 tỉnh: Nam Hà và Ninh Bình.
- Ngày 6-11-1996, tách tỉnh Nam Hà thành
2 tỉnh: Nam Định và Hà Nam. Tỉnh Nam Định hiện nay gồm: 1 thành phố (Nam Định) và 9 huyện (Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh,
Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thủy).
HUYỆN GIAO THỦY
-
Vùng
đất của huyện Xuân Trường và Giao Thủy ngày nay, nguyên là đất huyện Giao Thủy,
thuộc phủ Thiên Trường cũ (địa giới vùng đất Giao Thủy cổ, đến nay vẫn chưa có
tài liệu nào xác định cụ thể).
-
Đầu
thế kỷ XVI, huyện Giao Thủy, thuộc phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam.
-
Năm
Cảnh Hưng thứ 2 (1741), trấn Sơn Nam chia thành 2 lộ: huyện Giao Thủy thuộc lộ
Sơn Nam Hạ.
-
Thời
Gia Long, phủ Thiên Trường là đơn vị hành chính trên huyện, dưới trấn. Phủ
Thiên Trường gồm 4 huyện: Giao Thủy, Nam Chân, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên, với 34
tổng, 313 xã. Huyện Giao Thủy có 9 tổng, 86 xã. Các tổng của huyện Giao Thủy:
Đỗ Xá, Hộ Xá (2 tổng này sau cắt về huyện Nam Trực), Cát Xuyên, Hà Cát, Hành
Cung, Hoành Nha, Kiên Lao, Thủy Nhai, Trà Lũ.
-
Thời
Tự Đức, năm 1862 đổi phủ Thiên Trường thành phủ Xuân Trường.
-
Năm
1934 tách phủ Xuân Trường thành 2 đơn vị hành chính: phủ Xuân Trường và huyện
Giao Thủy. Năm 1948 đổi phủ Xuân Trường thành huyện Xuân Trường.
-
Huyện
Giao Thủy gồm: 5 tổng, với 56 xã.
Tổng Hoành Nha được
thành lập thời Lê Cảnh Hưng (1750-1770), gồm các xã: Diêm Điền, Đông Bình, Hoành
Đông, Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Hoành Lộ, Hoành Nha, Khắc Nhất, Ngưỡng
Nhân, Lạc Nông, Duyên Thọ, Tiên Chưởng, Sa Châu, Thanh Khiết, Đan Phượng, Văn Trì,
Quất Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ.
Tổng Hoành Thu được
thành lập thời Minh Mạng (1820-1840), gồm các xã: Đa hiếu, Mộc Đức, Thức Hóa, Bỉnh
Ry, Tồn Thành, Địch Giáo, Quân Lợi, Duy Tắc, Hiệt Củ, Thúy Rĩnh, Đắc Sở, Tự
Lạc.
Tổng Quất Lâm được
thành lập năm 1846 (tách một số xã của tổng Hoành Nha và tổng Hoành Thu), gồm
các xã: Quất Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ, Vân Trì, Thanh Khiết, Đan Phượng, Đa Hiếu,
Mộc Đức.
Tổng Lạc Thiện thành
lập thời Tự Đức (1848-1883), gồm các xã: Đông Thiện, Thiện Nguyên, Chí Thiện, Trường
Uyên, Lạc Thiện, Quân An, Đại Đồng, Trà Hương, Xuân Thiện, Tam Lạc, Kiên Hành, Nho
Lâm, Thiện Giáo, Tập Thiện, Nam Thiện.
Tổng Hà Cát được
thành lập thới Thành Thái (1889-1907), gồm các xã: Hà Cát, Định Hải, Giáo Phòng,
Thuận Thành, Thanh Nhang, Hà Nam, Nam Thành.
-
Năm 1848 bỏ tổng hợp nhất 56 xã cũ
thành lập 24 xã mới của huyện Giao Thủy:
1. Xã Quất Hải gồm: Quất Lâm Thượng, Quất
Lâm Hạ.
2. Xã Đức Hiếu gồm: Đa Hiếu, Mộc Đức.
3. Xã Tân Dân gồm: Địch Giáo, Quân Lơi, Duy
Tắc.
4. Xã Gi Thành gồm: Bỉnh Ry, Tồn Thành.
5. Xã Minh Đức gồm: Hiệt Củ, Đắc Sở, Thúy
Rĩnh.
6. Xã Hải Yến gồm: Liên Trì, Đan Phượng, Thanh
Khiết.
7. Thọ Tiên Châu gồm: Sa Châu, Tiên
Chưởng, Duyên Thọ.
8. Xã Hoành Nha.
9. Xã Liên Hoành gồm: Hoành Tam, Hoành Tứ,
Hoành Lộ.
10. Xã Hoành Sơn gồm: Hoành Nhị, Khắc
Nhất.
11. Xã Đông Hòa gồm: Hoành Đông, Đông
Bình.
12. Xã Diêm Điền.
13. Xã Quần Long gồm: Kiên Long, Nam Long,
Trung Long, Long Hành
14. Xã Kiên Lâm gồm: Kiên Hành, Nho Lâm.
15. Xã Cát Hải gồm: Hà Cát, Định Hải.
16. Xã Giá Thành gồm: Lạc Thành, Thuận
Thành, Giáo Phòng A, Giáo Phòng B.
17. Xã Nam Thiện gồm: Hà Nam, Nam Thành, Thiện
Giáo.
18. Xã Thức Hóa.
19. Xã Lạc Nhân gồm: Ngưỡng Nhân, Lạc
Nông.
20. Xã Tam Thiện gồm: Đông Thiện, Thiện
Nguyên, Chí Thiện.
21. Xã Xuân Lạc gồm: Xuân Thiện, Tam Lạc, Phú
Ninh.
22. Xã Thanh Nhang.
23. Xã Thiện An gồm: Lạc Thiện, Quân An.
24. Xã Thiện Hương gồm: Trà Hương, Tập
Thiện.
-
Năm 1952 thành lập lại các xã, có chữ
Giao đứng đầu gồm 18 xã:
1. Xã Giao Lâm: Quất Hải cũ và thêm Văn
Trì
2. Xã Giao Hiếu: Hiếu Đức cũ
3. Xã Giao Tân: Tân Dân và Minh Đức cũ.
4. Xã Giao Yến: Hải Yến cũ.
5. Xã Giao Châu: Thọ Tiên Châu cũ.
6.
Xã Giao Tiến: Hoành Nha cũ.
7. Xã Giao Hoành: Liên Hoành cũ
8. Xã Giao Sơn: Hoành Sơn cũ
9. Xã Giao Điền Hòa: Đông Hòa và Diêm
Điền cũ
10. Xã Giao Hoan: Thức Hóa và Gi Thành cũ.
11. Xã Giao Hải: Quần Long và Kiên Lâm cũ.
12. Xã Giao Hồng: Cát Hải cũ.
13. Xã Giao Nhân: Lạc Nhân cũ.
14. Xã Giao An: Thiện An cũ và Trà Hương
của Thiện An cũ.
15. Xã Giao Thiện: Tam Thiện cũ.
16. Xã Giao Lạc: Thiện Hương và Giáo Thành
cũ.
17. Xã Giao Xuân: Xuân Lạc cũ.
18. Xã Giao Hà: Thanh Nhang và Nam Thiện
cũ.
-
Năm 1953 sáp nhập Giao Thiện và Giao
An thành xã Giao Thiện.
-
Năm 1956 điều chỉnh lại một số xã:
1. Xã Giao Hải tách thành: xã Giao Long
và xã Giao Hải.
2. Xã Giao Lâm tách thành: xã Giao Lâm và
xã Giao Phong.
3. Xã Giao Tiến
tách thành: xã Giao Tiến, xã Giao Hùng và xã Giao Thắng.
4. Xã Giao Điền Hòa tách thành: xã Giao
Bình và xã Giao Hòa.
5. Xã Giao Lạc tách thành: xã Giao Lạc và
xã Giao Thuận.
6. Xã Giao Thiện tách thành: xã Giao
Thiện và xã Giao An.
7. Xã Giao Hà tách thành: xã Giao Thanh
và xã Giao Hương.
8. Xã Giao Tân tách thành: xã Giao Tân và
xã Giao Minh.
9. Xã Giao Sơn tách thành: xã Giao Sơn và
xã Giao Hà.
-
Năm 1965 thành lập thêm xã Bạch Long.
-
Năm 1967 sáp nhập hai huyện Xuân
trường và Giao Thủy thành huyện Xuân Thủy.
-
Năm 1969 điều chỉnh lại một số xã:
1. Xã Bình Hòa, gồm hai xã hợp nhất: Giao
Bình và Giao Hòa.
2. Xã Giao Thịnh, gồm hai xã hợp nhất:
Giao Hoan và Giao Hiếu.
3. Xã Giao Tiến, gồm
ba xã hợp nhất: Giao Tiến, Giao Hùng, Giao Thắng.
-
Năm 1973 điều chỉnh lại một số xã:
1. Giải thể xã Giao Minh, chia về Giao
Châu và Giao Tân.
2. Xã Giao Châu gồm: Tiên Chưởng, Sa Châu,
Thúy Rĩnh, Đắc sở.
3. Xã Giao Tân gồm: Quân Lợi, Địch Giáp, Duy
Tắc, Hiệt Củ.
4. Xã Giao Nhân gồm: Duyên Thọ, Ngưỡng
Nhân, Lạc Nông.
5. Xã Hồng Thuận gồm: Xã Giao Thuận và xã
Giao Hồng.
-
Năm 1986 thành lập thị trấn Ngô Đồng (gồm một số đơn vị của xã Bình Hòa và
xã Hoành Sơn).
-
Năm 1997 tách huyện Xuân Thủy thành
hai huyện như cũ: (Xuân
Trường và Giao Thủy).
-
Năm 2003 thành lập thị trấn Quất Lâm (xã Giao Lâm cũ).
-
Hiện nay huyện Giao Thủy có: 20 xã và
2 thị trấn.
Hai thị Trấn: Ngô Đồng và Quất Lâm.
Hai mươi xã: Giao Tiến, Giao Châu, Giao
Tân, Bạch Long, Giao Thịnh, Giao Phong, Giao Yến, Giao Nhân, Giao Hà, Hoành Sơn,
Bình Hòa, Hồng Thuận, Giao Lạc, Giao Thanh, Giao Xuân, Giao Long, Giao Hải, Giao
Hương, Giao An, Giao Thiện.
XÃ GIAO TIẾN:
-
Thời
kỳ đầu thế kỷ XV, có tên là ấp Hòe Nha. Vào năm Diên Ninh thứ 3 (1456), đời vua
Lê Nhân Tông (1443-1459), dòng họ Nguyễn do ông Nguyễn Thịnh Công, quê gốc ở
làng Hòe Nha, phía Bắc thành phố Nam Định, xuống khai hoang ở vùng biển huyện
Giao Thủy, đã lấy tên làng cũ đặt cho vùng đất mới.
-
Thời
vua Lê Cảnh Hưng (1750-1770), tổng Hoành Nha được thành lập gồm 19 xã: Hoành
Đông, Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Hoành Lộ, Hoành Nha, Khắc Nhất, Ngưỡng Nhân, Lạc Nông, Duyên Thọ, Tiên Chưởng,
Sa Châu, Thanh Khiết, Đan Phượng, Văn Trì, Quất Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ, Diêm
Điền, Đông Bình.
Như vậy xã Hoành Nha được thành lập
trên cơ sở ấp Hòe Nha, thời Lê Cảnh Hưng (cũng có thể sớm hơn).
-
Năm
1948 bỏ tổng, huyện Giao Thủy có 24 xã, trong đó có xã Hoành Nha.
-
Xã Hoành Nha ban đầu gồm 3 thôn:
1. Thôn Thượng (năm 1956 đổi thành xã
Giao Tiến).
2. Thôn Chính (năm 1956 đổi thành xã Giao
Thắng).
3. Thôn Trung (năm 1956 đổi thành xã Giao
Hùng).
-
Năm 1952 đổi tên xã Hoành Nha thành xã
Giao Tiến (huyện Giao
Thủy tổ chức lại còn 18 xã có chữ Giao đứng đầu.
-
Năm 1956 xã Giao Tiến tách thành ba
xã:
1. Giao Tiến (4 thôn: Việt Dũng, Cộng Hòa,
Đoàn Kết, Quyết Tiến).
2. Giao Thắng (5 thôn: Quy Chính, Quyết
Thắng, Bảo Thắng, Toàn Thắng, Chiến Thắng).
3. Giao Hùng (4 thôn: Tiền Phong, Phấn
Đấu, Thắng Lợi, Thống Nhất).
-
Năm 1969 lại hợp nhất ba xã trên đây
thành xã Giao Tiến ngày nay.
TÔN TRƯỞNG:
Cao Văn Hưu. (Đời thứ 10 Tân phái)
TRƯỞNG BAN LỄ TIẾT:
Cao Trần Bốn. (Đời thứ 10 Cành Thứ)
NGƯỜI BIÊN SOẠN:
Cao Quốc Sủng. (Đời thứ 12 Ất phái)
CỘNG TÁC VIÊN:
Cao Văn Học. (Đời thứ 12 Giáp phái)
Cao Văn Hồng. (Đời thứ 12 Giáp phái)
Cao Quang Trường. (Đời thứ 12 Ất phái)
Cao Bá Khoát. (Đời thứ 12 Ất phái)
Cao Trần Vương. (Đời thứ 12 Ất phái)
Cao Xuân Thiện. (Đời thứ 13 Ất phái)
CHẾ BẢN VÀ IN BẢN GỐC:
Cao Quốc Sủng
TRÌNH BÀY BÌA:
Cao Bá Khoát
Cao Xuân Thiện
IN ẤN VÀ PHÁT HÀNH
Cao Văn Hồng,
Cao Bá Khoát
Chi nhánh họ Cao Trần tại Hà Nội.
DÂNG GIA PHẢ HỌ CAO TRẦN 2018.
Ngày giỗ Thái tổ Vô Ý, 18 tháng Giêng,
năm Mậu Tuất (2018).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Gia phả dòng họ Cao Trần, xã Giao Tiến
Bản Tiếng Việt của ông Cao Bá Lô
Bản biên soạn năm Đinh Sửu 1997.
2 - Phú ý dòng họ Cao Trần, xã Giao Tiến
Bản in tháng 12 năm Kỷ sửu (2009).
3 – Một số bản gia phả của các phái các chi.
Bản Ất phái của ông Cao Văn Lợi, năm
1983.
Bản Bính phái, năm Quý Tỵ 2013.
Bản Mậu phái, năm Canh Thân 2000.
Bản Kỷ phái, năm Bính Thân 2016.
Bản Canh phái, năm Đinh Dậu 2017.
Bản Tân phái của ông Cao Uy Tín, năm
2017.
Chi tổ Ngọc Quyết (Giáp phái), năm Đinh
Dậu 2017.
Chi tổ Đăng Long (Giáp phái).
Chi tổ Văn Phức (Giáp phái).
Chi tổ Đức Bằng (Ất phái).
Chi tổ Đức Thiệm (Ất phái), năm Kỷ Sửu
2009.
Chi tổ Thế Hương (Bính phái), ở Duy
Tắc.
4 - Gia phả họ Trần Nguyên Hãn Nghệ - Tĩnh
Bản biên soạn Xuân Tân Tỵ 2001.
5 - Các tài liệu tra cứu:
Lịch Vạn niên
Các triều đại Việt Nam,
Hoè Nha lục.
Địa bạ xã Hoành Nha.
DIỄN CA GIA PHẢ HỌ CAO TRẦN GIAO
TIẾN GIAO THỦY NĐ.
Con cháu họ Cao Trần Giao Tiến
Đức hiếu trung, nhớ đến ông cha
Tự hào dòng tộc danh gia
Nhiều đời gìn giữ sơn hà bình yên(1).
Bậc tiền bối Tổ Tiên thuở trước
Nguyện
trung quân, giúp nước phò vua.
Thế thời loạn lạc bấy giờ
Nhiều phen biến động sa cơ tháng ngày.
Phải ẩn tích nơi này chốn khác
Rồi mai danh lưu lạc, lần hồi
Tổ tiên Cao tộc quê tôi
Đã từng
như thế một thời vượt lên.
Nay con cháu không quên Tiên Tổ
Lập phả vàng rạng rỡ Tổ tông
Diễn ca nguồn gốc cha ông
Giúp đời sau thấu, hiểu trong phả này.
Mấy thế kỷ đổi thay chuyển dịch
Đến nay còn dấu tích phả ghi
Ái Châu từ đấy ra đi
Gốc “Trần duệ xuất”(2) ngầm ghi
dặn dò.
Mong hậu thế phụng thờ Tiên Tổ
Biết nguồn xưa tìm rõ Tổ tông:
Buổi đầu chỉ có Tổ ông
Dẫn
người con thứ, tước công rõ ràng(3) .
Về lập ấp tại làng Nha Chử
Đó chính là tên chữ Hòe Nha.
Từ đây dòng tộc họ ta
Họ Trần bỗng chốc đổi ra Cao Trần.
Trải biết mấy gian truân dựng nghiệp
Cha xây nền, con tiếp bước thay
Sông
Hồng phá hội(4) lúc này
Ruộng đồng mất sạch, sông nay đổi dòng(5).
Dân làng phải gắng công dựng lại
Xóm làng thêm vững chãi, tươi xanh.
Cháu con nối nghiệp học hành
Mới năm đời, đã trở thành đại gia.
Thiên tai mới xảy ra, phá sản
Họ ta còn gặp nạn Kim Ngô(6)
Tên này nham hiểm, mưu mô
Diệt họ Cao để khỏi lo sau này.
Lúc bĩ cực ngập đầy gay cấn
Có ông Cao Đức Tuấn(7) họ ta
Can trường, dũng cảm đứng ra
Đứng
đầu trị chúng, thù nhà(8) trả xong.
Cả dòng họ vượt vòng nguy khốn
Từ bấy giờ yên ổn làm ăn
Sinh sôi “con một, cháu đàn”
Phúc, tài, lộc phát; làm quan nhiều đời.
Dưới
triều đại thuộc thời Lê mạt
Tiếp Nguyễn triều đều đoạt đỉnh cao:
Tham tri, Lang tướng, Lý hầu…
Cha con có lúc cùng nhau một triều.
Xin nhắc lại mấy điều (sự kiện)
Đó là thời triều Nguyễn - Gia Long
Sau ngày đổi cửa sông Hồng
Có vụ Điền án đất công rầy rà
Một dải đất phù sa trù phú
Dân Xuân Trường, Trà Lũ đến tranh.
Các họ liên kết ngọn ngành
Kiện lên Tổng trấn Bắc Thành, thành công.
Họ Cao đã có công trong đó
Dân Hoành Nha còn nhớ ơn sâu
Các cụ đóng góp
công đầu
Đòi năm trăm (500) mẫu ruộng màu cho dân.
Lịch sử lại tiếp dần sự kiện
Có khá nhiều diễn biến chẳng quên
Thời vua Minh Mạng mới lên
Lại tranh tụng đất: chính quyền với dân.
Bọn hào lý ba lần “trưng dụng”
Trăm năm mươi (150) mẫu ruộng công điền.
Âm mưu chúng thật đảo điên
Biến công điền hóa tư điền ngang nhiên.
Họ ta lại một phen thưa kiện
Cùng toàn dân đi đến Tổng dinh
Về sau vào tận Triều đình
Tạị
kinh thành Huế tường trình, bày tâu.
Bao năm tháng giãi dầu mưa nắng
Rất kiên trì cố gắng tận tâm
Giằng dai ròng rã mười năm
Đến đời Thiệu Trị mới phân rạch ròi.
Bọn hào lý mất mồi lũng đoạn
Bị thua đau điên loạn, rất cay
“Tam trưng, điền án” còn đây
Ghi trong câu đối tỏ bày Đình Trung (9)
.
Nhân dân khắp các vùng ca ngợi
Trăm họ đều hưởng lợi, mưu sinh
Họ ta ăn ở nghĩa tình
Cùng các họ khác kiên trinh, kết đoàn.
Tình làng
xóm ngày càng bền chặt
Dựng
Đền, Chùa, Hậu Phật đã mua(10)
.
Từ đường, lăng tẩm kế thừa
Ngày càng lộng lẫy, bốn mùa khói nhang(11)
.
Nhờ phúc ấm, đinh(12) càng phát triển
Càng làm thêm vinh hiển họ ta
Tinh thần yêu nước, giữ nhà
Thời nào cũng nổi, bôn ba xuất hành.
Kể từ thuở Bá Vành khởi nghĩa
Đến Tam đăng Phạm Nghị lên đường.
Chống Pháp theo chiếu Cần Vương
Tổ tiên ta cũng can trường ứng theo.
Cuộc kháng Pháp gieo neo, gian khổ
Cha ông ta đã đổ máu đào
Cùng cả dân tộc bước vào
Trường kỳ kháng chiến, tiêu hao địch hàng.
Lại tiếp tục chuyển sang đánh Mỹ
Đế quốc to thế kỷ hai mươi
Tương quan lực lượng xa vời
Cuộc chiến ác liệt, sục sôi chiến trường.
Hòa khí thế khẩn trương cả nước
Dòng họ ta tiếp bước lên đường
Băng
qua lửa đạn
chiến trường
Gian lao chẳng quản, coi thường hiểm nguy.
Cùng dân tộc thần kỳ chiến thắng
Bốt đồn thù san phẳng, sạch không
Ngày nay thống nhất non sông
Từ Nam chí Bắc cờ hồng tung bay.
Hai cuộc chiến dạn dày, son sắt.
Hy sinh người, vật chất lớn lao
Tự hào tôn tộc Trần Cao
Ba mươi liệt sĩ, máu đào hy sinh.
Có bà mẹ độc đinh duy nhất
Người con trai mất ở chiến trường.
Biết bao câu chuyện đau thương
Họ ta đóng góp nhiều gương tuyệt vời.
Nay đương đại đổi đời cực lớn
Công nghệ cao thời bốn chấm không (4.0)
Cháu con ngày một thêm đông
Tư duy trí tuệ, “nối dòng nho gia”(13)
.
Tô điểm tiếp họ ta học
vấn
Rất tự tin, phấn chấn, mừng vui
Phó giáo
sư có hai người
Sáu
người Tiến sĩ, rạng ngời họ ta
Ba
trăm Đại học ra
công tác(14)
Thành
kỹ sư đĩnh đạc, nổi danh
Nghệ
sĩ, bác sĩ chuyên ngành
Bậc
thày nổi trội, xứng danh: tinh
tường
Những sinh viên còn đương tiếp bước
Rất nhiều, không tính được - các trường
Có nhà
Tam Đạị đồng
đường
Đều là đạị học, cột rường thi thư.(15)
Nền
“khoa bảng” bây giờ dẫu khác
Nhưng tựu trung: uyên bác, chuyên sâu.
Không còn “KINH SỬ” làu làu(16)
Mà đa dạng hoá, toàn cầu, liên bang.
Thế hệ trẻ nay càng năng động
Làm kinh doanh hào phóng, mạnh tay.
Dám làm, dám chịu rủi may
Công ty, xí nghiệp nọ, này khai trương.
Từng bươn trải thương trường, khởi nghiệp
Tính cạnh tranh quyết liệt, được thua,
Tuỳ theo thời thế “chuyển mùa”
Bao năm trụ vững, cuộc đua kiên cường.
Lại nói đến con đường binh nghiệp
Họ Cao ta nối tiếp ông cha
Đã từng trận mạc xông pha
Đã qua trường lớp lại qua chiến trường.
Trải qua những chặng đường cống hiến
Nhiều cháu con thăng tiến rất nhanh
Công an, bộ đội – song hành
Sĩ quan cao cấp, hai ngành khá đông.
Chung quy lại theo dòng thời cuộc
Họ Cao Trần vững bước nối nhau
“Lớp cha trước, lớp con sau” (17)
Tinh thần hiếu học từ lâu thấm nhuần.
Bốn thế kỷ xoay vần dòng họ
Đời nối đời phúc tổ dài lâu
Hai cành, mười phái cùng nhau
Cộng đồng tôn tộc trước sau một nhà.
Giữ cho được thượng hòa, hạ mục(18)
Cùng vun cây đắp gốc vững bền.
Sao cho xứng với Tổ tiên
Vươn cùng thời đại, ngày thêm mạnh giàu.
Dâng thế Phả đọc câu chúc phúc
Cùng cháu con ngâm khúc diễn ca
Niềm vui tràn ngập mọi nhà
Đón mùa xuân mới vinh hoa đời đời.
Tháng 10-2018 .
Cao Văn Hùng
Tổng số có 176 câu, gồm 44
khổ thơ song thất lục bát.
(Diễn ca gia phả cũ năm 1997
có 108 câu)
Chú thích:
(1)-Nhiều đời gìn giữ sơn hà bình yên: Họ Cao Trần Giao Tiến thuộc
dòng dõi Trân Nguyên Hãn (Người đã giúp vua
Lê Lợi đánh giặc Minh) và ngược lên nữa là Trần Quang Khải, Trần Đạo Tái, Trần
Văn Bích, Trần Nguyên Đán (giúp các vua Trần đánh giặc bảo vệ đất nước) rồi trở lại sau này con cháu của dòng họ Trần
Nguyên Hãn cũng lại giúp các triều đại sau như thời Lê trung hưng giữ yên bờ
cõi.
(2)-Trần duệ xuất: ở đây trích 3 chữ trong đôi câu đối ở Từ Đường
họ cả. Nguyên văn là: “Khởi gia tự tích Ái châu lai”; “Truyền thế đương sơ Trần
duệ xuất”, có nghĩa là: “Gốc nhà từ châu
Ái tới” và “Nối đời là hậu duệ của họ Trần”.
(3)-Tước công rõ ràng: Trước khi chạy loạn ra làng Hòe Nha, cụ
Thái Tôn lúc ấy đã được phong tập tước là Dự Nghĩa Công.
(4)- “Sông Hồng phá hội”:
theo sử sách ghi chép của làng Hoành Nha và các cụ truyền miệng kể lại là sông
Hồng trước kia đổ ra cửa Hà Lạn bây giờ; Hòe Nha lúc đó là tả ngạn sông Hồng
nhưng đến năm 1787 ( ngày 13 tháng 8,năm
Đinh Mùi ) thời vua Lê Chiêu Thống trị vì có một trận lụt lớn (Đại hồng thủy) xảy ra ở Giao Thủy làm
thiệt hại rất lớn về người và nhà cửa ruộng vườn, làm cho dòng sông Hồng đổi dòng, đổ ra cửa Ba Lạt ngày nay nên các
cụ gọi là “sông Hồng phá hội”.
(5)- Sông nay đổi dòng: như đã giải thích ở chú thích (4).
(6)-Họ ta còn gặp nạn Kim Ngô: Kim Ngô,tên đầy đủ là Đinh Kim Ngô;
nguyên là viên tiên chỉ của làng lúc bấy
giờ. Hắn có thù oán đàn hặc với các cụ họ Cao Trần nhà mình nên Y đã giết chết
cụ Cao Đức Trung (đời thứ 5) con trai
thứ 2 của cụ Huệ Phương (tức cụ Bá Hân). Sau đó ba, bốn ngày hắn cùng một viên quan ở Thái Bình sang để tiêu
diệt cả họ Cao nhằm trừ hậu họa.
(7)-Khi ấy đinh họ ta còn ít, làng xã lại mới bị ngập lụt. chuyển
cư lần thứ 2 do vậy tình thế rất nguy cấp may mà có ông Cao Đức Tuấn (đời thứ 6 , con trai cụ Bá Tuân đời thứ 5)
đứng lên dẫn đầu tổ chức giết chết tên Đinh Kim Ngô để trả thù cho chú (ruột)
và cả dòng họ Cao lúc đó. (Xem trong “Gia
phả họ Cao Trần Giao Tiến” nói kỹ).
(8) Thù nhà trả xong: tức ông Cao Đức Tuấn đã giết chết Đinh Kim
Ngô trả thù cho chú ruột đã nói ở trên.
(9)- Đình Trung: tức là đình Giữa, ở Quán May ngày xưa. Đình này
sau cải cách ruộng đất đã dỡ bỏ mất đến nay không còn nữa.
(10)- Dựng đền, chùa Hậu Phật đặt mua: các cụ Tổ họ ta khi mới đến
làng Hòe Nha đã cùng các họ khác tham gia xây đền, chùa, miếu, điện.Hiện nay ở
Giao Tiến có tới 3 chùa lớn có lịch sử lâu đời và được xếp hạng “Di tích lịch
sử Quốc Gia”. Theo gia phả để lại thì vào năm 1713 cụ Thái Tôn mua hậu Phật ở
chùa Hưng Long (thôn Quy Chính) vả năm
1718 mua hậu Phật ở chùa Hưng An (thôn
Thượng).
(11)- Ngày càng lộng lẫy, bốn mùa khói nhang: Hiện nay họ Cao Trần
ở xã Giao Tiến có đến 4 cấp nhà thờ (theo
thứ tự từ cao xuống thấp là: họ cả, họ cành, họ phái, họ chi) chi họ nào
cũng có nhà thờ (từ Đường) và cũng có
lăng mộ đi kèm; Qua nhiều năm các chi họ đã nhiều lần tôn tạo, nâng cấp, mở
rộng nhà thờ và lăng của mình rất trang nghiêm, hoành tráng. Ngày rằm và mồng
một hàng tháng đều thắp hương,đăng, trà, tửu, hoa, quả ,tiền vàng cho các bậc
Tổ tiên.
(12) -(Đinh): ở đây chỉ nam giới tức con trai, đàn ông. Theo tục
lệ phong kiến quy định nam giới có trách nhiệm “nối dõi tông đường” là trụ cột thờ phụng Tổ tiên.
(13) -“Nối dòng nho gia”: cụm từ này mượn trong Truyện Kiều; chỉ
sự kế tiếp học hành của cha ông ta.
(14)-Ba trăm đại học ra công tác: tức là chỉ số sinh viên đã tốt
nghiệp đại học trở thành các kỹ sư, bác sĩ, nghệ sĩ….Thực tế hàng năm còn rất
nhiều các thế hệ sinh viên đang học ở các trường đại học; không thể tính được
đầy đủ.
(15)-Thi thư: chỉ sự học hành theo sách vở, đèn sách thi cử để trở thành quan lại ngày xưa, thành các nhà
tri thức ngày nay.
(16)- Không còn kinh sử làu làu: Ngày xưa các cụ đi thi chủ yếu là
học thuộc và hiểu rất sâu ngữ nghĩa của chữ Hán nôm (chữ Nho) thuộc về lĩnh vực khoa học xã hội chứ không thi về tự
nhiên, kỹ thuật, công nghệ như bây giờ.
(17)-“Lớp cha trước, lớp con sau”: câu này mượn của cố nhà thơ Tố
Hữu.
(18)- Giữ cho được thượng hoà, hạ mục”: câu này và một số câu nữa
còn lại của bài này đều giữ nguyên nội dung thơ (3 khổ cuối cùng) của cụ cố CAO
QUANG THẠNH đời thứ 11, phái Ât họ ta; có sửa đi một số từ chẳng hạn như: “Mười lăm đời phúc Tổ dài lâu”
sửa lại là: “Đời nối đời phúc Tổ dài lâu”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét