SƯU TẦM CÂU ĐỐI CỦA GS VŨ
KHIÊU
Đôi
câu đối viết ở cổng tam quan
MỞ RỘNG TAM QUAN MUÔN DẶM ĐÓN CHÀO CON CHÁU TỚI
NÂNG CAO THẦN TỰ NGHÌN THU THÀNH KÍNH KHÓI HƯƠNG BAY
Một số dòng họ nhỏ hơn đã xin cụ GS Vũ Khiêu cho phép
sửa và rút gọn lại thành:
MỞ RỘNG TAM QUAN ĐÓN CHÀO CON CHÁU TỚI
NÂNG CAO ĐẠI TỰ THÀNH KÍNH TỔ TIÊN VỀ
NGHỆ THUẬT CÂU ĐỐI HÁN NÔM
Nguồn: Văn chương Việt
Câu đối, tiếng Hán
gọi là Đối liên 對聯
(một cặp câu đối xứng), Doanh liên 楹聯
(một cặp câu dán cột nhà). Người ta có khi còn gọi là Doanh thiếp 楹帖. Các bậc thức giả ngày xưa rất
chuộng câu đối, các dịp lễ tết, hôn sự, chúc thọ, tang ma… đều có câu đối. Câu
đối có thể xin, tặng, bán, mua hoặc một người ra, một người khác đối lại. Câu
đối thân thiết tới mức nam nữ tỏ tình với nhau cũng dùng hình ảnh câu đối để ví
von:
Người như cây gỗ xoan đào
Em như câu đối dán vào được chăng ? (Ca dao)
Trong các nơi thờ phụng trang nghiêm như đình, đền,
chùa, miếu, từ đường, lăng tẩm… câu đối càng được quý trọng. Nhìn chung có thể
thấy câu đối là một loại hình văn hoá nghệ thuật rất phổ thông ở nước ta. Nghĩa
là sinh hoạt câu đối đã vượt khỏi các phạm vi đời thường: Thành thị chuộng câu
đối thì nông thôn cũng chuộng câu đối, nơi tôn nghiêm khắc câu đối thì nơi thôn
quê dân dã cũng ngân nga câu đối, vua quý câu đối thì quan lại càng quý câu
đối, trí thức làm câu đối thì bình dân cũng làm câu đối, người già thích câu
đối thì trẻ nhỏ cũng thích câu đối, nam mê câu đối thì nữ cũng mê câu đối… Câu
đối thực tế chủ yếu do tầng lớp trí thức Hán học sáng tạo nhưng công lưu giữ và
truyền tụng phải kể đến tầng lớp bình dân. Tóm lại, câu đối Hán Nôm là sự kết
hợp sâu sắc và hài hoà giữa văn chương bác học và văn học bình dân.
Phép
làm câu đối có 2 yêu cầu:
- Đối thanh: chữ của vế trên bằng thì chữ của vế dưới phải
trắc, và ngược lại.
- Đối loại: nếu vế trên sử dụng danh từ, động từ, tính từ,
số từ, đại từ hay sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, điển cố… tại vị trí nào thì
vế dưới nó, ở tại vị trí đó cũng phải sử dụng đúng từ loại như vậy.
Câu đối đúng quy
cách thì vế trên (bên phải nếu dán cột) có vần trắc, vế dưới (bên trái nếu dán
cột) có vần bằng.
Câu
đối nhìn chung có 3 loại:
- Tiểu đối 小對: Mỗi vế từ 4 chữ trở xuống:
Trời
cao / Đất dày
Trống
đánh xuôi / kèn thổi ngược
貧賤難移 / 威武不屈
Bần
tiện nan di / Uy vũ bất khuất.
(Nghèo hèn khó đổi / oai lực không phục)
鴛鴦比翼 / 夫婦同心
Uyên
ương tỷ dực / Phu phụ đồng tâm
(Uyên ương liền cánh / chồng vợ đồng lòng)
- Thi đối 詩對 (đối thơ): mỗi vế đối 5 chữ hoặc 7
chữ theo luật Đường thi:
四季花長好 / 百年月永圓
Tứ
quý hoa trường hảo / Bách niên nguyệt vĩnh viên.
(Bốn mùa hoa vẫn nở / trăm năm trăng vẫn tròn)
千秋歲月千秋美 / 萬里江山萬里春
Thiên
thu tuế nguyệt thiên thu mỹ;
Vạn
lý giang sơn vạn lý xuân.
(Nghìn thu năm tháng nghìn thu đẹp; muôn dăm non sông muôn dặm xuân)
- Phú đối 賦對 (đối phú): đặt câu theo thể Đường
phú, có 3 dạng:
+
Song quan 雙關 (2 cửa):
Mỗi vế có từ 5 chữ đến 9 chữ đặt liền nhau:
倒海移山豪情永在 / 改天換地樂趣無窮
Đảo
hải di sơn hào tình vĩnh tại;
Cải
thiên hoán địa lạc thú vô cùng.
(Lấp biển dời non tinh thần còn mãi; đổi trời thay đất hứng thú không cùng)
+
Cách cú 隔句 (cách câu): mỗi vế
có một câu dài, một câu ngắn cách nhau:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới (Quan huyện
ra)
Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên (Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành đối)
+
Tất hạc 膝鶴 (gối hạc): Mỗi vế
có từ 3 đoạn trở lên, có ít nhất một đoạn ngắn xen giữa:
Cửa
trai thiền nương chửa bao lâu, dịp dàng sư dạy, kinh kệ sư rèn, hương thấp đèn
khiêu, khấn nguyện những mong sư mạnh khoẻ;
Đường
tịnh độ rời xa phút chốc, chuông trống vãi khua, chùa chiền vãi quét, dâng hoa
cúng quả, sớm khuya nở để vãi chơ vơ.
Nghệ thuật câu đối Hán Nôm:
* Sử dụng điển cố một cách tinh vi:
小白伯齊生管仲 / 大元夷宋死天長
Tiểu
Bạch bá Tề, sinh Quản Trọng,
Đại
Nguyên di Tống, tử Thiên Trường.
(Tiểu Bạch làm vua cho Quản Trọng sống; Đại Nguyên diệt Tống đem Văn Thiên
Trường giết)
*
Sử dụng thành ngữ, cách ngôn rất tuyệt vời:
Lão cũng đã mừng
thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai còng, tất tả
chân đăm đá chân chiêu, vì lão đỡ đần trong mọi việc;
Bà đi đâu vội bấy,
để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc cũ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa
chạm tay chén, cùng ai kể lễ chuyện trăm năm. (Nguyễn Khuyến)
Chữ Đại (大) là cả, bỏ một nét ngang (一), chữ Nhân (人)
là người, chớ thấy người sang bắt quàng làm họ;
Chữ Bì (皮) là da, thêm ba chấm thuỷ (氵), Chữ Ba (波)
là sóng, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
*
Chơi chữ tài hoa điêu luyện:
+
Chơi chữ kiểu dùng nhiều từ chỉ một nghề:
Nếp
giầu quen thói kình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm;
Việc
nước ra tay chuyển bát, bắc nam đâu đấy lại hàng.
(Lê Thánh tông vịnh bà hàng nước)
+ Chơi chữ kiểu âm Hán, nghĩa Nôm:
Da
trắng vỗ bì bạch; (Đoàn Thị Điểm ra)
Rừng
sâu mưa lâm thâm. (Hậu nhân đối)
(Bì bạch 皮白 : da trắng; Lâm thâm 林深 : rừng sâu – ngoài ra, bì bạch và
lâm thâm còn là từ tượng thanh)
Cái
(蓋)
là tượng , Tượng (象)
là voi, voi chầu cửa cái; (Sư ra)
Tu
(羞)
là hổ, Hổ (虎)
là cọp, cọp bắt thầy tu. (Hoàng Phan Thái)
+
Chơi chữ kiểu nửa vế Hán, nửa vế Nôm:
Phú
quý đa thê đa đa đẩu;
Gian
nan thê tử nhẹm nhẹm thìn.
(Nhà giàu nhiều vợ, đâu đâu đã / nghèo nàn vợ chết, nhịn nhịn thèm)
+
Chơi chữ kiểu lập từ độc đáo:
Mồng
một tết, mồng hai tết, mồng ba tết, ừ tết;
Sáng
đã say, trưa lại say, tối cũng say, cho say.
善報惡報遲報速報終須有報 / 天知地知爾知我知何謂無知
Thiện
báo, ác báo, trì báo, tốc báo, chung tu hữu báo;
Thiên
tri, địa tri, nhĩ tri, ngã tri, hà vị vô tri.
(Thiện báo, ác báo, chậm báo, nhanh báo, đến cùng có báo;
Trời biết, đất biết, anh biết, tôi biết, sao không ai biết)
*Đọc
theo Hán hay Nôm đều có nghĩa hợp lý:
鶯啼鳳語迎花帳 / 雁舞鸞飛拂錦屏
Oanh
đề phượng ngữ nghênh hoa trướng;
Nhạn
vũ loan phi phất cẩm bình. (Tam Nguyên Yên Đỗ)
(Oanh kêu, phượng hót chào trướng hoa; nhạn múa, loan bay lay bình gấm)
Đây
là câu đối mừng đám cưới với hình ảnh oanh kêu, phượng hót, nhạn múa, loan bay.
Nhưng nếu đọc theo âm Nôm (đọc từ dưới lên, từ phải qua trái) thì cũng có nghĩa
mừng đám cưới, nhưng hình ảnh tao nhã và cổ điển trên bị “tiếu lâm hoá”:
屏錦拂飛鸞舞雁 / 帳花迎語鳳啼鶯
Bình
gấm phất phơ loan mó nhạn;
Trướng
hoa nghiêng ngửa phượng đè oanh.
Nghệ thuật sáng tác câu đối Hán Nôm thật muôn hình vạn
trạng. Cái hay, cái tài, cái tình, cái ý của các cụ nho học ngày xưa khó mà tả
cho hết được. Ở đây chúng tôi chỉ dám gọi là lượm lặt cái tinh vi trong kho
tàng câu đối Hán Nôm. Nói thế còn e có tội với các cụ vì đã vô tình xé nát cái
hồn thiêng trong nó. Ở bài viết này chúng tôi chỉ mong mõi một điều rằng, chúng
ta, những người đang thừa hưởng một kho tàng di sản Hán Nôm đồ sộ và phong phú,
hãy trân trọng giữ gìn và phát huy giá trị của nó, để đừng then mặt với cha ông
SƯU TẦM CÂU ĐỐI ĐẶT Ở BÀN THỜ TỪ ĐƯỜNG
Nguồn: Internet
Sơn cao mạc trạng sinh thành Đức (núi cao khó ví với đức
sinh thành)
Hải khoát nan thù cúc dục Ân (bể rộng khôn bì với ơn bồng bế
nuôi nấng)
Tiên Tổ phương danh lưu Quốc sử
Tử tôn tích học kế Gia phong
Tổ tích bồi cơ, công đằng sơn cao thiên cổ ngưỡng (Tổ tiên
xưa xây nền, công cao tựa núi, nghìn thủa ngưỡng trông)
Vu kim diễn phái, trạch đồng hải tuấn ức niên tri (Con cháu
nay lớn mạnh, ơn sâu như bể, muôn năm ghi nhớ)
Phúc sinh phú quý Gia đường thịnh
Lộc tiến Vinh hoa Tử Tôn hưng
Học hải hữu Thần Tiên tổ vọng
Thư sơn sinh Thánh tử tôn minh
Trường tồn sự nghiệp ân Tiên tổ
Vĩnh phúc cơ đồ nghĩa Tử tôn
Tổ công khai địa quang tiền đại (Tổ tiên công lao vang đời
trước)
Tông đức tài bồi dụ hậu côn (Ông cha đức trí tích lớp sau)
Công tại Hương thôn, danh tại phả
Phúc lưu tôn tử, đức lưu dân
Nghĩa nhân tích tụ thiên niên thịnh
Phúc đức tài bồi vạn đại hanh
Phụ mẫu ân nghĩa tồn thiên địa
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn
Thượng bất phụ tiên tổ di lưu chi khánh (Trên nối nghiệp Tổ
tiên truyền lại)
Hạ túc vi hậu nhân chiêm ngưỡng chi tiêu (Dưới nêu gương con
cháu noi theo)
Cúc dục ân thâm Đông hải đại (Ơn dưỡng dục sâu tựa biến
Đông)
Sinh thành nghĩa trọng Thái sơn cao (Nghĩa sinh thành cao
hơn non Thái)
Sơn thủy thanh cao Xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh
Mộc bản thuỷ nguyên thiên cổ niệm
Thiên kinh địa nghĩa bách niên tâm
Vạn cổ công thành danh hiển đạt
Thiên thu đức thịnh tính phồn vinh
Bản căn sắc thái ư hoa diệp (Sắc thái cội cành thể hiện ở
hoa lá)
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn (Tinh thần tiên tổ lưu lại
trong cháu trong con)
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ (Năm có bốn mùa, mở đầu bằng
mùa xuân)
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên (Người ta có trăm tính nhưng
tính hiếu thảo là cần trước hết)
Họ hàng tôn quý công danh muôn thuở chẳng phai màu
Tổ miếu thiêng liêng phúc đức nghìn thu còn tỏa sáng
Ngày tháng yên vui nhờ phúc ấm
Cần kiệm sớm hôm dựng cơ đồ
Tổ tiên xưa vun trồng cây đức lớn
Con cháu nay giữ gìn nhớ ơn sâu
Noi gương tiên tổ truyền thống anh hùng muôn thuở thịnh
Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh
Trung hiếu trì gia viễn (lấy trung hiếu giữ nếp nhà bền
vững)
Đức nhân xử thế trường (dùng nhân đức xử thế lâu dài)
Phúc ấm trăm năm Tổ tiên còn để lại
Nề nếp gia phong con cháu phải giữ gìn
Nhờ thọ đức ông cha đã dựng
Đạo tôn thần con cháu đừng quên
Thiên chi hữu Nhật Nguyệt, quang chiếu thập phương (vầng
Nhật Nguyệt mười phương rạng rỡ)
Nhân chi hữu Tổ Tông, lưu thùy vạn thế (đức Tổ Tông muôn
thuở sáng ngời)
Phụng sự tổ tiên hồng phúc đến
Nuôi dạy con cháu hiển vinh về
Tổ tiên ta dày công xây dựng
Con cháu nhà ra sức trùng tu
Muôn thuở công thành danh hiển đạt
Nghìn thu đức sáng họ phồn vinh
Tổ đường linh bái thiên niên hằng tại đức lưu quang
Tộc tính quý tôn vạn đại trường tồn duy kế thịnh
Ơn nghĩa quân thần còn mãi với đất trời
Tinh thần tổ tiên sống luôn trong con cháu
Thờ tiên tổ như kính tại thượng
Giúp hậu nhân sáng bởi duy tân
An bình thần liệu nền gia thất
Sáng rực tôn huân ấm tử tôn
Ngước mắt nhớ tổ tông công đức
Ghi lòng làm hiếu tử hiền tôn
Tổ tông gieo trồng nền điền phúc
Cháu con canh tác nết viên tân
Hiếu kính thông tông tổ
Trinh tường tập tử tôn
Tông tổ thiên thu trường tự điển
Nhi tôn vạn cổ thiệu như hương
Các hệ phồn vinh nhờ phúc ấm
Nhiều đời cố gắng tỏ công xưa
Tổ tông công đức còn thơm dấu
Cháu thảo con hiền sáng mãi gương
Tổ đường bách thế hương hoa tại
Duệ tộc thiên thu phúc lộc trường
Nghiệp tổ vững bền nhân, trí, dũng
Gia phong muôn thuở đức, thảo, hiền
Cây cỏ chào xuân cành lá thắm
Tổ tông tích đức cháu con vinh
Chất chứa nghĩa nhân nghìn thuở thịnh
Trau dồi phúc đức vạn đời tươi
Hữu khai tất tiên, minh đức giả viễn hỹ (Lớp trước mở mang,
đức sáng lưu truyền vĩnh viễn)
Khắc xương quyết hậu, kế tự kỳ hoàng chi (Đời sau tiếp nối,
phúc cao thừa kế huy hoàng)
Tử lý phần hương y cựu nhi giang sơn tăng mỵ (Sông núi quê
xưa thêm vẻ đẹp)
Tùng song cúc kính quy lai chi cảnh sắc thiêm xuân (Cúc tùng
cành mới đượm mầu Xuân)
Dục cầu bảo an vu hậu duệ (Nhờ Tiên tổ anh linh phù hộ)
Tu bằng cảm cách ư tiên linh (Dìu cháu con tiến bộ trưởng
thành)
Bách thế bản chi thừa cựu ấm (Phúc xưa dày, lưu gốc cành
muôn thủa
Thiên thu hương hoả tráng tân cơ (Nền nay vững, để hương
khói nghìn thu)
Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh (Tổ tiên tích Đức ngàn năm
thịnh)
Phúc ấm nhi tôn bách thế gia (Con cháu nhờ ơn vạn đại vinh)
Tổ đức vĩnh thuỳ thiên tải thịnh (Đức Tổ dài lâu muôn đời
thịnh)
Gia phong hàm lạc tứ thời xuân (Nếp nhà đầm ấm bốn mùa Xuân)
Tổ công tông đức thiên niên thịnh (Tổ tiên công đức ngàn năm
thịnh)
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh (Con cháu hiếu hiền muôn thuở
vinh)
Phúc mãn đường niên tăng phú quý (Phúc tràn đầy, mỗi năm
tăng phú quý)
Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa (Ðức rực rỡ, càng ngày thêm
vinh hoa)
Bảo kiếm phong tùng ma lệ xuất (Bảo kiếm không mài thì không
sắc)
Mai hoa hương tự khổ hàn lai (Hoa mai không qua mùa lạnh thì
hương không thơm)
Tứ quý hoa trường hảo (Bốn mùa hoa luôn nở)
Bách niên nguyệt vĩnh viên (Trăm năm nguyệt vẫn tròn)
Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện (Trời đất vô tư,
làm thiện tự nhiên gặp thiện)
Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh (Thánh hiền có dạy,
tu thân có thể được vinh)
Thiên thu tuế nguyệt thiên thu mỹ (Nghìn thu năm tháng nghìn
thu đẹp)
Vạn lý giang sơn vạn lý xuân (Muôn dặm non sông muôn dặm
xuân)
Đảo hải di sơn hào tình vĩnh tại (Lấp biển dời non tinh thần
còn mãi)
Cải thiên hoán địa lạc thú vô cùng (Đổi trời thay đất hứng
thú khôn cùng)
Triệu nhân ngật dụng hữu thành, hiếu tư duy tắc (Gây mối thờ
tự tốt đẹp, lòng hiếu kính đó là khuôn phép)
Thế đức khắc xương quyết hậu, phúc lí vĩnh tuy (Đức lớn cháu
con thịnh vượng, phúc lộc dõi truyền)
Thân tộc lạc quan hi thế hóa (Gia tộc mừng trông giáo hóa
tốt đẹp)
Đôn luân như kiến nghĩa môn phong (Vun bồi đạo đức, như thấy
phong khí của gia đình hiếu nghĩa)
Bách thế bản chi bồi chỉ phúc (Gốc cành trăm đời vun phúc
lớn)
Nhất gia trữ trục thụ phong thanh (Rường cột một nhà nức
tiếng thơm)
Mộc xuất thiên chi do hữu bản (Cây sinh ngàn nhánh do từ
gốc)
Thủy lưu vạn phái tổ tòng nguyên (Nước chảy muôn nơi bởi có
nguồn)
Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh (Tổ tiên tích đức nghìn
năm thịnh)
Phúc ấm nhi tôn vạn đại vinh (Con cháu ơn nhờ vạn đời vinh)
Tộc tính quý tôn, vạn đại trường tồn danh kế thịnh (Họ hàng
tôn quý, chẳng phai mờ công danh muôn thuở)
Tổ đường linh bái, thiên niên hằng tại đức lưu quang (Tổ
miếu linh thiêng, còn tỏa sáng phúc đức nghìn thu)
Thượng bất phụ tiên tổ di lưu chi khánh (Trên chẳng phụ phúc
đức tổ tiên truyền lại)
Hạ túc vi hậu nhân chiêm ngưỡng chí tiêu (Dưới đủ làm gương
sáng cho con cháu noi theo)
Nhân chỉ nghĩa cơ, Tiên Tổ tài bồi lưu hậu trạch
Tiền quang hậu dụ, Tử Tôn hoài niệm báo ân thâm
Kiến tạo gia phong tân cốt cách (Dựng xây cốt cách gia phong
mới)
Bảo tồn quốc giáo cổ tinh hoa (Giữ gìn tinh hoa quốc giáo
xưa)
Công đức lưu truyền thiên cổ niệm (Công đức lưu truyền nghìn
năm nhớ)
Thạch bi ký giám ức niên hương (Bia đá khắc ghi muôn thuở
thơm)
Công đức vĩnh truyền tiên thế phả
Thuần bàng bất cải ngã gia phong
Đức trạch trường lưu thiên lý thuận
Ân quang phổ chiếu vạn gia xuân
Đức tổ quang vinh hương vạn cổ
Từ môn hiển hách tráng thiên thu
Đại hiếu đại trung, đức trọng lưu truyền vạn cổ
Chí tình chí nghĩa, đạo cao cảm hóa thiên thu
Phiến niệm truy tư truyền bản tộc (Tấm lòng tìm hiểu về dòng
họ)
Bách niên hương hỏa ức tiên công (Trăm năm hương hỏa nhớ
công xưa)
Tổ đức cao minh tư phú ấm (Phúc ấm nhớ về tổ đức sáng)
Tôn thừa phụng sự thọ nhân hòa (Nhân hòa thờ mãi, việc cháu
con)
Phúc địa tâm điền nghi mỹ quả
Hiền tôn hiếu tử tức danh hoa
Tiên tổ thiên niên phù hậu duệ
Tử tôn hậu thế vọng tiền nhân
Phúc đức tổ tiên gieo trồng từ thuở trước
Nhân tâm con cháu bồi đắp mãi về sau
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
Tu nhân tích đức do tiên tổ (tu nhân tích đức là công đức
của tổ tiên)
Ẩm thủy tư nguyên phận tử tôn (uống nước nhớ nguồn là phận
làm con cháu)
Đức thụ tài bồi thiên tải thịnh
Tử tôn kế thế vạn niên trường
Đông khứ xuân lai gia hạnh phúc
Hạ qua thu chí tộc trường lưu
Sự năng tri túc tâm thường lạc
Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao
Cao sơn lưu thủy thi thiên thủ
Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền
Vạn cổ công thành danh hiển đạt
Thiên thu đức thịnh tính phồn vinh
Tổ đức vĩnh thùy thiên tải thịnh
Gia phong hàm lạc tứ thời xuân
Nhân từ tái xuất nhân từ tử
Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận nhi
Đắc địa an cư thu hậu phúc
Phùng thời sinh nghiệp hưởng phong tài
Thụ thảo phùng xuân chi diệp mậu
Tổ tông tích đức tử tôn vinh
Môn nghinh xuân hạ thu đông phước (Cửa đón xuân hạ thu đông
phúc)
Hộ nạp đông tây nam bắc tài (Nhà tiếp đông tây nam bắc tài)
Tài nguyên quảng tấn lợi hanh thông (Nguồn tài rộng mở lợi
hanh thông)
Ngũ phúc lâm môn vạn sự hưng (Ngũ phúc đến nhà muôn sự hưng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét