LỜI MỞ ĐẦU
Họ Cao Trần, xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, khởi nguồn từ Thái tổ Trần Bong, tự Vô Ý từ vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hoá (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá) đến ấp Hoè Nha (sau là xã Hoành Nha, nay là xã Giao Tiến) khai cơ lập nghiệp vào năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1681 - 1705), triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705) và đổi từ họ Trần sang họ Cao đến nay đã trải qua hơn 330 năm với 15 thế hệ.
Ngày
18 tháng Giêng, ngày giỗ của Thái tổ Vô Ý được lấy làm ngày giỗ Tổ chung hàng
năm cho cả dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.
Tổ
Cao Đức Thiệm đời thứ 8 là con trai thứ ba tổ Cao Đức Trứ, cháu tổ Cao Đức Mậu
thuộc cành Trưởng, phái Thứ (Ất phái) của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến. Tổ sinh
năm Kỷ Mão (1819), mất ngày 3 thàng 12 năm
Canh Thân (1860), hưởng 42 tuổi.
Ngày
3 tháng Chạp hàng năm con cháu tập trung gặp mặt và tổ chức giỗ Tổ tại nhà thờ của phái nay là
Hoạt Tế Đường, Xóm 4 Giao Tiến (trước là Xóm 8 Quyết Tiến và thôn Cộng Hòa
cũ).
Hậu duệ của Tổ ngày nay đã đến đời thứ 15 và có tới hàng trăm người đang làm ăn sinh sống ở nhiều vùng miền của Tổ quốc cũng như ở nước ngoài. Cây có gốc, nước có nguồn đó là quy luật của tạo hoá. Con người ta cũng vậy, phải có cội nguồn gốc rễ, có tổ tiên mới có con cháu hậu duệ ngày nay. Để các thế hệ con cháu hôm nay và mãi mai sau dù có đi đâu, ở đâu cũng biết về cội nguồn của mình, nhớ tới công ơn tổ tiên để ghi mãi không quên, kế thừa phát triển, đời đời nối dõi. Trong phái họ tổ chức biên soạn cuốn gia phả của phái tổ Cao Đức Thiệm cung cấp về phần phả hệ trong nội bộ phái để con cháu ngày nay cũng như sau này biết được thứ tự trên dưới và mối quan hệ gắn kết họ hàng trong chi trong phái. Trong cuốn gia phả này Ban biên soạn cũng cung cấp những nội dung về nguồn gốc, quá trình khởi nghiệp, xây dựng và phát triển của dòng họ Cao Trần qua các thời kỳ: ấp Hoè Nha đến xã Hoành Nha và sau là xã Giao Tiến, gắn liền với tiến trình lịch sử phát triển của đất nước, của địa phương và của dòng họ.
Phần Tham khảo tập hợp một số nội dung và thông tin để mọi người có thể tìm hiểu rộng thêm về dòng họ Cao Trần và phái Ất...
Biên soạn lần thứ 1 được tiến hành từ đầu năm
và đã hoàn thành vào cuối năm Kỷ Sửu (2009). Tổ chức biên soạn do ông Cao Quốc
Sủng (đời 12) cùng với sự cộng tác của
ông Cao Bá Khoát (đời 12), Cao Xuân
Thiện (đời 13) đồng thời luôn nhận được
sự nhiệt tình ủng hộ của các cụ, các ông và nhiều người trong phái về việc cung
cấp thông tin, tài liệu, đóng góp ý kiến... Cuối năm 2018 nhân ngày giỗ tổ Cao
Đức Thiệm, trong phái họ đã thống nhất tổ chức biên soạn hoàn thiện lại Gia phả
của phái. Cuốn gia phả biên soạn lần thứ 2 được kế thừa của lần biên soạn thứ 1,
nội dung có một số thay đổi: Trích dẫn Gia phả họ Cao Trần, thêm phần “Tổng
quan” và sửa đổi một số chi tiết theo cuốn Gia phả in lần 2 năm 2020; bổ sung
phần “Nhà thờ và Lăng mộ” của phái cùng các chi; sửa đổi và cập nhật thông tin mới
trong phái; “Phần Tham khảo” cũng được bổ sung thêm.
Cuốn “Gia phả phái Tổ Cao Đức Thiệm” hoàn thành vào mùa Thu năm Nhâm Dần
2022 với những nội dung chính: Trích
Gia phả họ Cao Trần, Giao Tiến; Phả hệ phái tổ Cao Đức Thiệm (chi tiết); Phả hệ phái tổ Cao Đức Thiệm (tóm tắt); Phả đồ; Nhà thờ và Lăng mộ; Tham khảo.
Cách ghi số thứ tự: cụm số thứ 1 chỉ
thứ tự các Đời; cụm số thứ 2 chỉ thứ tự các Chi; cụm số thứ 3 chỉ thứ tự các
Nhánh; cụm số thứ 4 chỉ thứ tự số người trong một đời. Ngày mất ghi theo Âm lịch.
Từ 60 tuổi trở lên ghi là thọ, dưới 60 tuổi ghi là hưởng. Các địa danh ghi đến
thôn là thuộc xã Giao Tiến, ghi đến xã là thuộc huyện Giao Thủy, ghi đến huyện
là thuộc tỉnh Nam Định (tìm hiểu sâu về địa
danh xem phần Tham khảo trang 226).
Cuốn “Gia
phả phái Tổ Cao Đức Thiệm” biên soạn lần 2, được lưu giữ tại Hoạt Tế Đường,
nhà thờ các chi và trong nội bộ phái họ. Các thế hệ sau này dù đi đâu ở đâu cũng
nhớ về cội nguồn, nhớ ơn sâu tiên tổ, nhớ kế thừa truyền thống tiếp tục việc tổ
chức biên soạn Gia phả với chu kỳ khoảng 60 năm 1 lần, để nối dài mãi mãi không
dứt và lưu truyền Gia phả phái họ chúng ta cùng con cháu muôn đời ...
PHẦN THỨ NHẤT
TRÍCH GIA PHẢ HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN
Lời tựa cuốn Gia phả gốc họ Cao Trần.
Tổng quan: Vài nét về nguồn gốc, quá trình khởi nghiệp, xây dựng và phát triển dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.
Trích dẫn Phả hệ họ Cao Trần, Giao Tiến (Từ đời thứ 1 đến đời thứ 7).
Tạo hóa cho dòng họ để làm gốc, từ đó xây dựng và phát triển, kế thừa mãi mãi không dứt. Họ Cao ta phát tích từ họ Trần, dựng nền nếp từ Nha Chử, đời trước kể lại đời sau ghi chép, khẳng định cơ sở cội nguồn, chịu ơn sâu tiên tổ, mở mang dòng họ, tâm niệm ghi nhớ không quên. Nay biên tập phả này để con cháu đời đời sáng tỏ, các thế hệ đời đời nối dõi.
(Lời tựa dịch từ cuốn gia phả gốc bằng chữ Hán họ Cao Trần, Giao Tiến)
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN GỐC
QUÁ TRÌNH KHỞI NGHIỆP, XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
DÒNG
HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN.
1 - Nguồn gốc dòng
họ Cao Trần, Giao Tiến.
2 - Thời kỳ từ khởi nghiệp năm 1683 đến trước sông Hồng đổi cửa năm 1787.
3 - Thời kỳ sông Hồng
đổi cửa năm 1787
đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
4 - Thời kỳ từ
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
5 - Xây dựng từ đường họ và lăng mộ tổ.
1- Nguồn gốc dòng họ Cao Trần, Giao Tiến.
Thái tổ húy Bong (có bản dịch là Bông), tự Vô Ý, gốc họ
Trần. Năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), đời Vua Lê
Hy Tông (1676 - 1705), Thái tổ đưa người con trai thứ hai huý Căn, tự Công Bật
từ vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa) đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định), làm ăn, sinh
sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao. Thái tổ đã phải nhận một chức phận thấp để
được định cư tại ấp, khi đó Thái tổ tuổi đã trung
niên, Thái tôn tuổi đang trưởng thành. Bà Thái tổ và các con trai còn lại phần
mộ đều ở quê cũ, không rõ sự thể đương thời như thế nào? chỉ biết rằng Thái tổ
dặn lại và sau này được ghi trong phả lục.
- Đôi
câu đối ở từ đường họ.
Đôi câu đối bằng chữ Hán được ghi lại ở từ đường họ vào thời Vua Lê Dụ
Tông (1705 - 1728), niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705 - 1719), để nhắc nhở các thế hệ
con cháu luôn nhớ tìm về nguồn cội của dòng họ.
Phiên âm :
Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất
Khởi gia
tự tích Ái châu lai
Nghĩa là:
Nối đời con cháu từ
Trần tộc
Nguồn gốc gia đình quê xứ Thanh
- Năm chân linh Thái tổ Vô Ý đưa từ
quê cũ ra quê mới để thờ:
Trần Quý Công tự
Vô Tâm.
Trần Nhất lang tự
Phúc Thiện.
Trần Nhị lang tự
Phúc Tín.
Trần Tam lang tự Chân
Không.
Trần Quế Hoa
Nương.
Phiên âm lời viết ở cuốn gia phả chữ Hán
về 5 chân linh:
“Dĩ thượng chư Chân linh phần
mộ nguyên tại cựu quán. Vô Ý Công thiên vu tư địa ấp, tập biên gia phả tương Trần
tính duệ hiệu, thư vu thế phả chi thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất
dã”
Lược dịch:
“Các vị Chân linh đời trước tổ Vô
Ý, phần mộ nguyên ở quê cũ. Tổ Vô Ý chuyển cư đến đất mới, biên lập gia phả,
đem nguyên duệ hiệu họ Trần viết trước thế phả để con cháu biết xuất xứ của
dòng họ”.
Năm
chân linh trên được Thái tổ Vô Ý đưa đến quê mới để thờ và được ghi vào gia phả
của dòng họ truyền lại đến ngày nay. Điều không bình thường ở đây là các chân
linh không ghi tên cụ thể, phần mộ chỉ ghi ở quê cũ, nhưng không cho biết rõ ở
địa phương nào?
- Lời tựa cuốn gia phả gốc bằng chữ Hán.
Phiên âm: “Thiên tích tính dĩ lập tông bản, hệ sở tự xuất nhi, khởi gia xưng tỵ tổ, kế tự đương tư bất vong. Ngã Cao tộc phát tích tự Trần gia, triệu cơ yên vu Nha Chử, tiền tác hậu thuật, khẳng cấu khẳng đường. Ngưỡng thâm khải hựu chi nhân, cánh thiết tác cầu chi niệm, viên thị tập vi phả lục, vĩnh thị tông diêu, thứ hồ tự sự khổng minh nhi thế thứ khả kỷ giả dã”.
Lược dịch: “Tạo hóa cho dòng họ để làm gốc, từ đó xây dựng và phát triển, kế thừa mãi mãi không dứt. Họ Cao ta phát tích từ họ Trần, dựng nền nếp từ Nha Chử, đời trước kể lại đời sau ghi chép, khẳng định cơ sở cội nguồn, chịu ơn sâu tiên tổ, mở mang dòng họ, tâm niệm ghi nhớ không quên.
Nay biên tập phả này để con cháu đời
đời sáng tỏ, các thế hệ đời đời nối dõi”.
Còn các chi tiết khác cũng không được gia phả ghi chép lại đầy đủ, nên việc
tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc của dòng họ Cao Trần ta ngày nay là rất hạn chế
và khó khăn.
Thành tâm của con cháu trong dòng họ
là luôn hướng tới tổ tiên, mong tìm kiếm về cội nguồn. Từ cuối những năm 50 cho
đến năm 1997 của thế kỷ XX, dựa vào những căn cứ trên đã nhiều lần họ ta tổ chức
khảo cứu ở vùng Thanh Hoá, nơi Thái tổ Vô Ý ra đi như được ghi trong gia phả, để
tìm hiểu rõ thêm về nguồn gốc và thân thế sự nghiệp của Thái tổ, nhưng không có
kết quả, có thể đây chỉ là nơi lập nghiệp, tạm cư không dài.
Tháng 10 năm 1999 khảo sát ở vùng Nghệ
An đã có được thông tin quan trọng: Gia phả
họ Cao Trần, Giao Tiến có những chi tiết trùng khớp với Gia phả dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ - Tĩnh.
Năm 2000 sau quá trình tìm hiểu,
nghiên cứu gia phả họ Cao Trần, Giao Tiến.
Hội đồng gia tộc dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ - Tĩnh đã tổ chức hội thảo và
quyết định công nhận họ Cao Trần, Giao Tiến, Giao Thủy, Nam Định là hậu duệ tổ
Trần Công Ngạn, thuộc phái tổ Trần Chân Tịch, húy Phúc Quảng (đời thứ 4, ở xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ
An), dòng họ Trần Nguyên Hãn, Nghệ
- Tĩnh nay là dòng họ Trần Pháp Độ, Nghệ - Tĩnh (xem thêm Phần tham khảo, trang 214).
Việc kết nối họ Cao Trần, Giao Tiến với dòng
họ Trần Pháp Độ, Nghệ - Tĩnh, bước đầu mở ra cho dòng họ ta một mốc lịch sử mới.
Thành quả đó thuộc về các cụ, các ông của nhiều thế hệ, qua nhiều năm gian khó
tìm kiếm, đây là điều được ghi nhận.
Nhưng cũng còn những vấn đề mà thế
hệ ngày nay và có thể cả sau này cần phải tiếp tục tìm kiếm, nghiên cứu để làm
sáng tỏ như:
- Năm chân linh trên không ghi tên cụ thể, phần mộ ghi tại cựu quán nhưng
không ghi rõ địa danh ở địa phương nào, vậy các chân linh đó có quan hệ như thế nào với Thái tổ Vô Ý.
- Nguyên nhân việc Thái tổ Vô Ý chuyển cư từ châu Hoan ra châu Ái, sau đó đến
ấp Hòe Nha và đổi từ họ Trần sang họ Cao.
- Thái tổ Vô Ý có quan hệ thế nào với tổ Trần Công Ngạn.
- Thái tổ Vô Ý có làm quan hay không? trong phả gốc không có chỗ nào nói điều
đó, nhưng có ghi hai con của Tổ được tập tước Công.
Những vấn đề trên cho đến nay cũng chưa có chứng cứ nào vững chắc để có câu trả lời xác đáng, một số ý kiến khảo cứu đưa ra còn nặng về dự đoán chưa đủ sức thuyết phục. Khi biên soạn cuốn gia phả lần này, phần nói về Thái tổ Vô Ý, Ban biên soạn vẫn căn cứ vào các bản cũ, khi nào thật sáng tỏ mới sửa đổi để tránh sai lầm và thiếu đồng thuận của nhiều người trong họ. Mong mọi người trong họ tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm để có được câu trả lời mà bao lâu nay trong dòng họ rất mong muốn.
2 - Thời kỳ từ khởi nghiệp năm 1683, đến trước sông Hồng đổi cửa năm 1787.
Khoảng năm Diên Ninh thứ 3 (1454 -
1459), triều vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459), dòng họ Nguyễn, đứng đầu là ông
Nguyễn Thịnh Công (hậu duệ sau này là ông Nguyễn Khải còn gọi là Biểu
Khải ở thôn Cộng Hòa) người gốc ở làng Hòe Nhai thuộc Bắc thành Thăng Long, xuống vùng bãi biển Giao Thủy,
thuộc trấn Sơn Nam, khai hoang, lập ấp và lấy tên làng cũ đặt cho nơi ở mới là ấp
Hòe Nhai, lâu dần gọi chệch ra là Hòe Nha, sau là xã Hoành Nha và nay là xã
Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Kế tiếp là họ Hoàng do ông Hoàng
Công, tự Võ Tâm đến lập nghiệp nơi đây cùng họ Nguyễn vào năm Hồng Đức thứ 23
(1470 - 1497), thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Tiếp sau họ Nguyễn, họ
Hoàng là các họ khác: Mai, Lê, Vũ, Phạm, Cao Trần…tính đến nay có trên 60 dòng
họ.
Địa phận ấp Hòe Nha ban đầu ở vào khoảng
Ngô Đồng ngày nay. Nằm bên tả ngạn sông Hồng (cửa sông Hồng khi đó là Hà Lạn), Đông Bắc giáp Dương Liễu, Thái
Bình, cách nhau bằng con sông nhỏ chảy qua cồn bãi ra biển (tương truyền việc qua lại của dân hai bên sông được làm bằng một chiếc
cầu tre nhỏ có buộc vài ba chiếc lạt tre, trận lũ lụt năm 1787 phá thành dòng
chính của sông Hồng ra biển và được lấy điển tích của cây cầu buộc vài ba lạt tre đặt cho cửa sông Hồng mới
là Ba Lạt); Bắc và Tây Bắc giáp sông Hồng (sau lũ lụt năm 1787 đoạn sông Hồng cũ được thu hẹp lại gọi là sông Sò hiện nay), phía bên kia
là huyện Xuân Trường; Đông và Nam còn lại giáp bãi bồi biển Đông.
Vào những năm cuối niên hiệu Dương
Hòa (1635 - 1643), đời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643), do vùng đất mới kém ổn định
hay bị lún và sạt lở, nên cư dân đã di chuyển dần về phía cửa sông Hồng khi đó
là Hà Lạn để tiếp tục khẩn hoang và xây dựng làng ấp. Việc hình thành làng ấp lần
thứ nhất diễn ra hàng thế kỷ (1456 - 1787), trải qua nhiều thế hệ khai hoang, lấn
biển, làm thủy lợi, ổn định nơi ở, phát triển sản xuất, xây dựng các công trình
giao thông, thủy lợi, văn hóa, xã hội…, dần dần hoàn chỉnh thành một làng trù
phú ở vùng đất mới của huyện Giao Thủy.
Theo tài liệu lịch sử thì tổng Hoành Nha được thành lập vào thời
kỳ
Lê Cảnh Hưng (1750 – 1770)
bao gồm 19 xã: Hoành Nha, Hoành
Đông, Hoành Lộ, Hoành Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Khắc Nhất, Ngưỡng Nhân, Lạc
Nông, Duyên Thọ, Tiên Chưởng, Sa Châu, Thanh Khiết, Đan Phượng, Văn Trì, Quất
Lâm Thượng, Quất Lâm Hạ, Diêm Điền, Đông Bình.
Như
vậy ấp Hòe Nha được đổi thành xã Hoành Nha có thể vào thời kỳ này hoặc sớm hơn (Một số tài liệu cho rằng: ấp Hoè Nha đổi
thành xã Hoành Nha vào thời kỳ xây dựng làng xã lần thứ hai, tức là sau trận lũ
lụt năm 1787 là không chính xác).
Thái tôn Công Bật theo Thái tổ Vô Ý đến
ấp Hoè Nha vào năm Quý Hợi (1683), niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1681 - 1705), đời
vua Lê Hy Tông (1676 - 1705) khi đó ở tuổi đang trưởng thành, vào thời kỳ làng ấp
đang trong giai đoạn định hình lần thứ nhất, về tình hình lịch sử xã hội người
đời bấy giờ ca ngợi là giai đoạn thịnh trị bậc nhất của thời Lê Trung Hưng (thời vua Lê, chúa Trịnh). Thái tôn khi trưởng thành, Tổ chăm lo phát triển kinh
tế, đời sống ngày một khá hơn. Khi làng ấp
hình thành, Thái tôn đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng các công
trình văn hoá, xã hội trong ấp, như quy hậu Phật ở chùa Hưng Long (thôn Chính) năm 1713 và chùa Hưng An (thôn Thượng) năm 1718. Thực hiện được ý
cha là sâu rễ, bền gốc ở nơi quê mới, làm ăn sinh sống lâu dài cùng với các
dòng họ khác, lúc bấy giờ ấp Hòe Nha là vùng
đất mới, dân cư còn thưa thớt. Tổ lấy 3 bà, sinh ra đông con nhiều cháu và từ
đó phát triển dòng họ Cao Trần trở thành một trong các họ lớn ở vùng đất Hoành
Nha sau này.
Thái tôn không những chăm lo phát
triển kinh tế, tham gia công việc xã hội, Tổ còn chăm lo việc dậy dỗ, học hành
cho con cháu, sống tu nhân tích đức, xây dựng nên truyền thống và phong cách sống
tốt đẹp cho dòng họ, như đôi câu đối được ghi lại ở từ đường họ như sau:
Gia truyền tín hậu
di mưu viễn
Thế mộ thi thư
nhã phạm tồn
Nghĩa là:
Xây nền tín hậu để lại cho con cháu lâu dài
Chăm lo việc học hành làm nền nếp cho muôn thủa
Con cháu của Tổ đến đời thứ 3 trở đi đã có người ra làm việc ở địa phương và nhà nước như: Thập lý hầu, Tri sự, Tri sự điện tiền, Lang tướng, Trung lang tướng…
Họ Cao
Trần, Giao Tiến ta bắt
đầu từ Thái tôn Công Bật ngày càng
phát triển và thịnh vượng trên vùng quê mới.
Vào cuối đời Lê - Trịnh (1732 - 1787) xã hội phong kiến suy tàn, nội bộ giữa vua Lê và chúa Trịnh ngày càng mâu thuẫn, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp các vùng. Trong Nam nhà Tây Sơn đã đánh bại chúa Nguyễn, năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế. Năm 1786 Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ nhất, tiến vào Thăng Long thực hiện khẩu hiệu: “Phù Lê diệt Trịnh”.
Thời kỳ này họ ta đã có những đóng
góp tích cực cùng các họ khác trong xã, mở mang khai phá đất đai, xây dựng cơ sở
hạ tầng để tồn tại và phát triển. Tham gia tổ chức bảo vệ an ninh của xã và các
công việc của đất nước như: ông Cao
Bá Tuân (đời thứ 5) với chức Thập lý
hầu, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn giặc cướp (giặc
Mèo), sau 7 ngày đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông Cao Đức Trung (đời thứ 5), thời nhà Lê có võ công được
phong làm Lang tướng. Ông Cao Danh Tiêm (đời
thứ 5) làm Tri sự, rồi đi tòng quân, sau tham gia đánh quân Thanh và hy
sinh ở núi Tam Tầng, Kinh Bắc, Bắc Ninh. Ông Cao Đăng Dụng (đời thứ 6) làm Trung lang tướng cuối triều Lê, sau chuyển sang
hàng ngũ Tây Sơn, đến triều nhà Nguyễn ông bỏ về quê.
Việc học hành và con đường khoa cử của
dòng họ Cao Trần trên đất Hòe Nha (sau là
Hoành Nha) trải qua hơn thế kỷ, từ khi khởi nghiệp năm 1683 đến năm 1787,
trong suốt thời kỳ xây dựng và phát triển làng xã lần thứ nhất không mấy thành
công. Các ông: Cao Công Cái, Cao Bá Hân, Cao Danh Đạt, Cao Bá Tuân, Cao Đức
Trung, Cao Đức Tuấn, Cao Đăng Dụng... đều rất kiên trì học hành, thi cử, nhưng
không đỗ đạt cao. Các ông đều chuyển sang con đường binh nghiệp hoặc tham gia
chính quyền địa phương, nhiều ông đã làm Tri sự, Tri sự Điện tiền, Lang tướng, Trung
lang tướng, Thập lý hầu..., nhiều ông về mở trường dậy học, làm thuốc...
Sự nghiệp của cha, ông ta trong thời
kỳ này còn để lại đời sau những dấu ấn sâu sắc của thời kỳ khởi nghiệp, phát
triển dòng họ, góp phần cùng các dòng họ khác xây dựng và phát triển làng xã lần
thứ nhất. Họ Cao Trần ta khi này mới có khoảng hơn 30 đinh nam với hậu duệ đến
đời thứ 5, thứ 6.
3 - Thời kỳ sông Hồng đổi cửa năm 1787 đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Ngày 15 - 8 (Âm lịch) năm Đinh Mùi
(1787), đời vua Lê Mẫn Đế (1787 - 1789), niên hiệu Chiêu Thống năm thứ 1, một
trận lũ lụt lớn đã xẩy ra ở vùng Giao Thuỷ, làm sông Hồng đổi dòng đổ thẳng ra
biển, tạo ra cửa sông Hồng mới là Ba Lạt ngày nay (sự kiện này còn gọi là Ba Lạt phá hội), đoạn sông Hồng chảy ra cửa
Hà Lạn cũ bị thu hẹp lại (sông Sò hiện
nay). Xã Hoành Nha từ tả ngạn sông Hồng, chuyển thành hữu ngạn sông Hồng, sản
nghiệp bị nước lũ cuốn trôi, cư dân thất tán làng xã thay đổi, hai bên lưu vực
sông bị phù sa bồi đắp thành cồn bãi. Thiên tai nặng nề tàn phá, đây là một sự
kiện lịch sử về địa lý lớn nhất của thời kỳ này. Sau trận lũ lụt dân cư lại trở
về, xây dựng lại làng xã lần thứ hai. Họ Cao ta có các ông: Thập lý hầu Cao
Danh Đạt (Trọng Đạt), Tri bạ Cao Trọng Cẩn (Ngọc Cẩn), Tri bạ Cao Đức Tuấn, Cai
hợp Thập lý hầu Cao Đức Mậu... đã đứng ra tham gia lo toan công việc của dòng họ
và của làng xã.
Đang khắc phục thiên tai, nơi ở mới
chưa kịp ổn định, một tai hoạ nữa đe doạ họ ta đó là người họ Đinh ở thôn Chính
nguyên là một viên quan trong vệ Kim ngô (thuộc
Cấm quân) đang là Tiên chỉ xã, sợ ông
Cao Đức Trung có chức quan cao hơn khi về xã sẽ bị tranh mất, nên đã âm
mưu cùng với một viên quan ở Thái Bình giết hại ông trên đường về khi thuyền tới
đoạn sông từ Ngô Đồng đến dốc Hoành Nha bây giờ. Sau vài ngày giết hại ông Đức Trung, Tiên chỉ họ Đinh đưa gia đinh sang
định tiêu diệt cả họ Cao để trừ hậu hoạ. Khi ấy nhân đinh họ ta còn ít, làng xã
lại mới chuyển cư lần thứ hai nên còn trù trừ chưa quyết định, thì xuất hiện
ông Cao Đức Tuấn (đời thứ 6) là cháu
ông Cao Đức Trung, đã dũng cảm dẫn đầu, chiến đấu tiêu diệt được Tiên chỉ họ
Đinh trả thù cho chú và cứu được dòng họ.
Công cuộc xây dựng lại làng xã lần thứ hai, sau nhiều năm mới được hoàn thành. Năm 1803, đời Vua Gia Long năm thứ 2 (1802 - 1819) xẩy ra vụ tranh chấp gần 500 mẫu ruộng công điền trên cánh đồng Phù sa (cánh đồng này được hình thành từ trận lũ lụt năm 1787, sông Hồng đổi cửa mới là Ba Lạt, xem Phù sa điền án). Các ông họ ta: Cao Trọng Đạt (đời thứ 4, cành Thứ), Cao Ngọc Cẩn (đời thứ 5, cành Trưởng), Cao Đức Mậu (Xã trưởng, đời thứ 6, Ất phái), đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực và 15 ông nữa trong xã: Phạm Tuấn Trạch (Hương mục), Nguyễn Quý Thực, Lê Huy Diệu, Lê Huy Lưỡng, Vũ Ngọc Cứ, Lê Huy Thước, Vũ Đình Đỗ, Lê Huy Tuấn, Vũ Đình Đạc, Đinh Danh Đức, Đỗ Không Liên, Phạm Đăng Mãn (Xã trưởng), Phạm Tuấn Nguyên, Phạm Tuấn Ngạn, Vũ Đình Lưu (Khán thủ) đại diện cho toàn xã tham gia tố tụng vượt cấp lên tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh đô Huế). Kết quả sau nhiều năm, kiên trì đấu tranh gian khổ, đến năm Giáp Tuất 1814, niên hiệu Gia Long thứ 13, đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà.
Năm 1826 niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1820 - 1840) lại xẩy ra vụ tranh tụng đất đai trong nội bộ xã. Bọn hào, lý đã ba lần trưng chiếm 150 mẫu ruộng công điền, làm tư điền (xem Tam trưng điền án). Các ông ở họ ta: Cao Đức Cảnh (đời thứ 7, Bính phái), Cao Danh Hữu (đời thứ 7, Kỷ phái), Cao Đức Chí (đời thứ 8, Ất phái) và 25 ông nữa trong xã cùng tham gia do ông Tri bạ Vũ Thế Hào khởi xướng, cử người lên trấn (từ năm 1831 bỏ tổng trấn và đổi trấn thành tỉnh), vào kinh đô Huế khiếu kiện. Phải đến năm 1841 niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841 - 1847) mới giành được thắng lợi. Dựa vào kết quả vụ Tam trưng điền án, ông Cao Đức Bằng (đời thứ 8), cùng với bác là Cao Danh Quán (đời thứ 7) và anh rể Vũ Xuân Đồng đã đấu tranh lấy thêm được 6 mẫu tư thổ và 12 mẫu ruộng khác trong nội làng. Qua thắng lợi của hai vụ án này, đã để lại câu đối tế ở đình làng:
Tiền Phù sa, hậu Tam trưng công đức
trường lưu thiên tải hậu
Ấp linh từ, gia tẩm miếu, hương
đăng tăng mỵ vạn niên xuân
Lược dịch:
Án Phù sa, án Tam trưng, sự nghiệp
đấu tranh công đức ngàn
thu sáng tỏ
Miếu làng thờ, đền họ phụng, phụng
thờ kế tự khói hương muôn
thuở dài lâu
Vào những
năm 1858 - 1873, ở vùng Nam Định có Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đứng ra tổ
chức lực lượng Nghĩa dũng quân vào Nam chiến đấu, tiễu phạt bọn phỉ người Trung
Quốc ở vùng Đông Bắc, trấn thủ ở Hà Cát (thuộc
huyện Giao Thủy) để bảo vệ vùng biên, đánh Pháp xâm lược ở Nam Định... Họ
Cao ta tích cực ủng hộ, nhiều người trực tiếp tham gia và nhiều người có quân
công được triều đình ban thưởng sắc văn: Chánh Thất phẩm Thiên hộ (Cao Đức Uẩn, Cao Như Sơn, Cao Đức Thắng,
Cao Đức Tích, Cao Đức Tính), Tòng Thất phẩm Thiên hộ (Cao Như Ngu), Chánh Bát phẩm Bá hộ (Cao Đức Quý, Cao Đức Hinh, Cao Ngọc Hướng) và nhiều ông được cấp bằng
Đội trưởng. Nhiều người trong họ đã tham gia quyên góp tiền cho Nghĩa dũng quân
như ông: Cao Đăng Doanh, Cao Đăng Cử, Cao Danh Thăng với mức 1200 quan tiền, được
triều đình ban thưởng Tòng Cửu phẩm Bá hộ sắc văn và 5 đồng Ngân Long (đồng tiền có con Rồng), ông Cao Đức Ý với
mức 2200 quan tiền, được triều đình ban thưởng Chánh Cửu phẩm Bá hộ sắc văn và
10 đồng Ngân Long. Trong gia phả cũ của họ tiếc rằng không ghi được chi tiết cụ
thể về thời gian cũng như địa điểm các ông tham gia, nên kết hợp với gia phả và
khảo cứu về thân thế sự nghiệp của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Ban biên
soạn chỉ xin bổ sung, sửa đổi vào gia phả lần biên soạn này một số ý để làm
sáng tỏ thêm về sự nghiệp và công lao đóng góp của các ông với đất nước ở thời
kỳ đó.
Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị,
quê ở xã Tam Đăng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Đỗ Cử nhân năm 1837, Hoàng giáp năm 1838, khi mới 33 tuổi, được triều đình bổ
nhiệm làm Tri phủ Lý Nhân. Năm 1845 nghỉ về quê dậy học và tổ chức nhân dân
khai hoang lập ra ấp Sỹ Lâm (nay là 3 xã: Nghĩa Lâm, Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải, thuộc
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Năm 1858 làm Đốc học Nam Định, cũng vào năm
đó Pháp tấn công Đà Nẵng, ông đã thành lập lực lượng Nghĩa dũng quân vào Đà Nẵng
đánh Pháp, đến Huế thì quân Pháp đã rút, ông đưa quân ra Bắc tổ chức tiễu trừ bọn
thổ phỉ người Trung Quốc đang quẫy nhiễu vùng Đông Bắc cho đến khi dẹp xong mới
thôi, triều đình thăng ông làm Hàn lâm
viện Thị giảng Học sỹ. Năm 1866 ông được sung chức Thương biện đóng quân ở vùng
Hà Cát để trông coi vùng biên. Năm Tự Đức thứ 26 (1873) ông làm Thị độc Học sỹ,
mùa Đông năm đó Pháp đem quân đánh chiếm Hà Nội, rồi đánh luôn Nam Định. Bấy giờ
ông đã 68 tuổi, ông vẫn tổ chức Nghĩa dũng quân chặn đánh quân Pháp ở ngã ba Độc
Bộ, do quân ít đánh không nổi ông cho rút nghĩa quân về căn cứ Yên Hàn (Ý Yên,
Nam Định)...(theo danh nhân đất Việt).
Ruộng đất canh tác và chỗ ở của cư
dân là vấn đề cơ bản để tồn tại cùng với sự phát triển thôn, xã. Thời kỳ đầu
dân cư của 3 thôn (xã Hoành Nha khi đó có 3 thôn: thôn Chính, thôn Thượng,
thôn Trung) sống tập trung ở các khu Cựu Thượng, Cựu Chính, Cựu Trung, các
cơ sở hạ tầng và các công trình văn hoá, tín ngưỡng cũng được xây dựng chủ yếu ở
đây. Thôn, xã dần được ổn định, ruộng đất được phân chia trên cơ sở số dân và
công sức đóng góp khai phá xây dựng làng xã như sau: thôn Thượng 7 phần, thôn
Chính 5 phần, thôn Trung 1 phần. Các thôn có đình, chùa, miếu riêng. Toàn xã là
một tổ chức hành chính từ đó hình thành Hương ước Xã chế. Họ Cao ta sống ở thôn Thượng (giáp
May, giáp Giữa, giáp Đông) tập trung ở thôn Cộng Hoà và thôn Việt Dũng sau
này. Sau do sự phát triển, dân số ngày càng đông nên các phần đất tư thổ không
còn. Họ Cao ta chỉ có chủ yếu hai phái ở lại phần đất cũ (Giáp phái và Ất phái), còn các chi, phái khác trong họ dần tách ra
ở rải rác trên các phần ruộng đất được cấp trong xã. Riêng chi ông Cao Thế
Hương (đời thứ 7, Bính phái), ông Cao
Văn Đờn (đời thứ 7, Kỷ phái) ở phần đất
cuối xã. Vào thời vua Minh Mạng (1820 - 1840) phần đất này được tách ra nhập
vào xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu. Do vậy họ Cao ta có một biệt phái thuộc xã Giao
Tân ngày nay.
Địa bạ xã Hoành Nha được tổ chức biên lập đến năm Gia Long thứ 4 (1805) phải dừng lại do vướng vụ án Phù sa, năm Gia Long thứ 13 (1814) vụ án mới kết thúc. Sau đó công việc được tiếp tục, năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ngày 22 tháng 3 đã hoàn thành và được cấp trên xác nhận. Những viên mục tham gia lập và hoàn thiện Địa bạ xã Hoành Nha: Cai tổng Lê Huy Tuấn, Lý trưởng Cao Đăng Phong (đời thứ 7, Giáp phái), Trưởng thôn Cao Đức Nhuận (đời thứ 7, Ất phái), Hương mục: Vũ Đình Lựu, Cao Đức Trứ (đời thứ 7, Ất phái), Lê Huy Bỉnh (xem Địa bạ xã Hoành Nha).
Về văn hoá, xã hội thời kỳ định hình
làng xã lần thứ hai, theo tộc phả, họ Cao ta đã có công đóng góp ngay từ buổi
ban đầu. Các ông: Cao Đức Mậu (đời thứ 6)
với tư cách là Xã trưởng, con là Cao Đức Trứ (đời thứ 7) Phó tổng, cháu là Cao Đức Bằng (đời thứ 8) Cai tổng, đã cùng các tiên liệt trong họ, trong xã tổ
chức dân kế tục xây dựng, tu bổ, tôn tạo các đình,
chùa, miếu, công quán, cầu đường, đê điều thuỷ lợi, đặt ra các thể lệ lễ Tiết cổ
truyền như: Xuân lễ, Thu lễ, Đình tế, lễ Tịch điền để khuyến nông ... Xây dựng Văn chỉ, mời các danh nho
về xã thiết trướng để khuyến học, dành phần ruộng công để yến lão, bảo thọ,
khuyến tiết và chăm sóc cô nhi, quả phụ. Trên cơ sở của thôn Thượng, sau đó đã
hiệp thương với toàn xã hình thành Hương ước mở được kho thóc Nghĩa thương liên
tục trong nhiều thập niên, nhờ vậy mà có thóc cứu trợ cho dân trong xã, cũng
như dân hai
huyện Kiến Xương,
Thư Trì, tỉnh Thái Bình mất mùa sang xã ta ăn xin vào năm Đinh Tỵ (1857) và có
thóc cấp cho Nghĩa dũng quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị ở thời kỳ đầu
chống Pháp (1858 - 1873). Triều đình nhà Nguyễn thời vua Tự Đức đã ban thưởng
cho Cai tổng Hoành Nha: Cao Đức Bằng, 3 đồng Ngân Long và cho xã Hoành Nha bức
đại tự có 4 chữ: “Thiện tục khả phong”. Hoành
Nha trở thành một xã có mỹ tục thuần phong, bức đại tự này được treo ở đình Giữa,
thôn Việt Dũng (đình Giữa đã dỡ bỏ, nơi đây nay là nhà Văn hoá Xóm 10 Quyết
Tiến) năm 1956 cải cách ruộng đất
đã bị tháo bỏ. Cũng trong thời kỳ này biệt phái họ ta ở xã Duy Tắc (năm 1948 sáp nhập là xã Tân Dân, năm
1952 là xã Giao Tân) đứng đầu là các ông Cao
Thế Hương (đời thứ 7, Bính phái) làm
Lý trưởng đầu tiên vùng đất mới xã Duy tắc sau làm Cai tổng, tổng Hoành Thu và ông Cao Văn Đờn (đời thứ 7, Kỷ phái) làm Lý trưởng, đã có nhiều công lao đóng góp xây dựng phát triển
xã Duy Tắc, tổng Hoành Thu.
Kế tiếp truyền thống của tiền nhân
vào đầu thế kỷ XX (1932 - 1936) các ông trong họ Cao Đức Thố (đời thứ 9), Cao Trung Kế (đời thứ 10), đã tham gia tố tụng vụ
tham nhũng công điền của bọn lý dịch, kỳ hào trong xã nhưng vì nội bộ có sự
chia rẽ, nên không đạt kết quả. Tiếp theo những năm trước Cách mạng tháng 8 có
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do ông Vũ Đức Âu (Khải Ca), thôn Việt Dũng tổ chức,
họ Cao có các cụ, các ông tham gia: Cao Xuân Thọ (đời thứ 9), Cao Trần Nhai (đời
thứ 10), Cao Xuân Hạ (đời thứ 11) Cao
Bá Uyên (đời thứ 11), Cao Ngọc Cảnh (đời thứ 11), sau đó lập ra Hội ái hữu
tương thân (1942 - 1944), ban đầu cụ Cao Trần Nhai là Hội trưởng sau chuyển ông
Cao Xuân Hạ làm Hội trưởng. Hội đã tổ chức đấu tranh giành thắng lợi công điền
được quân cấp cho toàn dân trong xã.
Thời kỳ định hình làng xã lần thứ hai,
sau nhiều năm gián đoạn do trận lũ, lụt năm 1787, mãi đến thế hệ thứ 7, thứ 8
trở đi, khi đời sống đã ổn định, các ông trong họ đã ra sức dùi mài kinh sử,
tìm học các danh nho trong vùng như: Hoàng Kỳ Nho (ông Đồ Giai), Tiến sỹ Doãn Uẩn,
Tuần vũ Nguyễn Túc, Cử nhân Nguyễn Quốc Trình, Tiến sỹ Đỗ Phát... Nhưng việc
thi cử của các ông trong họ ta không giành được học vị cao. Các ông Cao Đức Trứ,
Cao Đức Bằng, nổi tiếng thông minh, hiếu học, nhưng thi cử cũng không thành đạt,
gia phả họ còn ghi về ông Cao Đức Ý (đời
thứ 8) như sau: “Học hành sâu rộng, theo đuổi trường thi không mỏi”, khi tới
53 tuổi ông còn mời Hoàng giáp Phạm Văn Nghị về thiết trướng tại nhà (1869). Phụ,
tử cùng học một thầy (con là Cao Đức Dậu), năm 60 tuổi ông đi thi cũng chỉ lọt
vào vòng 3 (Nhị trường). Các thế hệ
tiếp theo như ông: Cao Ngọc Hướng, Cao Ngọc Cư, Cao Đức Cường, Cao Như Sơn, Cao
Đức Thắng, Cao Đức Hàm, Cao Đức Dậu... đều nỗ lực học tập, theo đuổi thi cử miệt
mài, không phải là không có chí, âu cũng là học tài, thi phận vậy. Các ông đã
phải từ vốn kiến thức đó chuyển qua hướng khác để lập thân, lập nghiệp như: làm
thuốc, dậy học, tham gia chính quyền địa phương, nhiều ông theo Hoàng giáp Tam
Đăng Phạm Văn Nghị đánh giặc (1858 - 1873), được sắc phong Thất phẩm Thiên hộ,
Bát phẩm Bá hộ. Nhiều ông nhờ vốn kiến thức văn hóa và có quân công được cải bổ
Văn giai như ông: Cao Như Sơn (đời thứ 9)
làm Thông phán Cao Bằng, Kinh lịch Mỹ Đức; Cao Đức Thắng (đời thứ 9) làm Hiệp tá Bộ Lễ ở tại kinh đô Huế; ông Cao Ngọc Cư
lên Cao Bằng dậy học, sau được bổ nhiệm làm Huấn đạo châu Thạch An.
Thế kỷ XX nền giáo dục dần dần thay
đổi, trong họ ta chuyển biến chậm chạp, vẫn theo Nho học, cốt có ít chữ thánh
hiền để giữ gìn luân lý, kỷ cương của đời trước. Mãi đến thập niên 30, 40 mới
có một số ít theo học trường Pháp - Việt, bậc Tiểu học, duy có ông Cao Như Đãng
(đời thứ 10, Giáp phái) học tới Đệ Nhị Trung học phổ thông, còn lại đa số thất học.
4 - Thời kỳ từ Cách
mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
Sau khi phát xít Nhật hất cẳng Pháp
chiếm toàn bộ Đông Dương, chúng bắt dân ta nhổ lúa để trồng đay và vơ vét lương
thực dùng cho quân sự, nên đã gây ra nạn đói đau thương cho cả nước ta vào đầu
năm Ất Dậu (1945). Họ ta cũng bị chết đói khoảng hơn 150 người, 19 gia đình
không còn thừa tự. Do đời sống quá khó khăn nên trước và sau năm 1945 đã có khoảng
30 phần trăm số dân trong họ phải đi lập nghiệp ở những nơi khác như: miền Nam,
Lào Cai, Hải Phòng, Yên Bái, Thái Nguyên…
Từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhiều
người và các gia đình trong họ đã trực tiếp tham gia các công việc của Cách mạng
như: tuyên truyền vận động cho Cách mạng, nuôi dấu cán bộ, ủng hộ tiền, lương
thực, thực phẩm, đấu tranh với lực lượng phản động. Khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
tham gia đi giành chính quyền rồi tham gia vào chính quyền hoặc các tổ chức
Cách mạng ở địa phương và sau đó là tham gia kháng chiến đánh Pháp như: ông
Cao Xuân Hạ (Ất phái) năm 1945 làm Bí
thư Việt Minh xã, năm 1946 làm Chủ tịch UBHC Kháng chiến xã (được Nhà nước công nhận là cán bộ hoạt động trước Cách mạng tháng 8 năm 1945);
ông Cao Bỉnh Uân (Giáp phái) được bầu làm Bí thư Chi bộ Đảng Cộng sản xã
Hoành Nha, trực tiếp làm Chủ tịch Hội
Liên Việt; ông Cao Ngọc Bội (Nhâm phái)
Chi ủy Chi bộ xã; ông Cao Trần Hào (Đinh
phái) Xã đội trưởng; ông Cao Văn Hoàn (Nhâm
phái), Uỷ viên Văn xã; ông Cao Trần Quýnh (cành Thứ) Xã đội trưởng; ông Cao Trần Đinh (cành Thứ) Bí thư Đoàn thanh niên xã; ông Cao Văn Thíu (Giáp phái) Đội trưởng du kích, hy sinh
trong chiến đấu; ông Cao Ngọc Hòa (Ất
phái) Chính trị viên Xã đội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt; ông Cao Văn Khánh
(Nhâm phái) Xã đội phó (sau này làm Bí thư Đảng ủy xã) và nhiều
ông khác.v.v. Nhiều ông tham gia công an,
quân đội ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong kháng chiến đánh Pháp như
các ông: Cao Xuân Thủy (Ất phái), Cao
Trần Cao (cành Thứ), Cao Quang Thạnh
(Ất phái), Cao Trung Ngọ (Ất phái), Cao Văn Lưu (Ất phái), Cao Văn Mai (Ất phái) và nhiều ông khác .v.v. Phát huy truyền thống cách mạng nhiều người trong họ lại
tiếp tục lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cuộc chiến bảo vệ
biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Trải qua các cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, nhiều người đã chiến đấu dũng cảm hy sinh xương máu,
trong đó có khoảng 40 liệt sỹ và 80 thương binh. Nhiều người giữ các chức vụ
quan trọng trong quân đội, được phong quân hàm cấp Tá. Nhiều người đã được nhà
nước tặng thưởng Huân, Huy chương các loại. Trong họ có 4 bà được nhà nước
phong tặng và truy tặng danh hiệu: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Sau hoà bình lập lại nhiều gia đình
trong họ lại rời quê hương đi khai cơ lập nghiệp ở những vùng đất mới để phát
triển kinh tế gia đình như ra xã Giao Thiện, xã Giao Lạc, xã Bạch Long... hay tới nơi xa như Lào Cai... Đất nước thống nhất nhiều
gia đình lại di cư vào sinh sống ở một số tỉnh phía Nam. Đất nước hơn 30 năm đổi
mới, đời sống mọi mặt của các gia đình trong họ từng bước được nâng cao. Về
kinh tế hầu như không còn hộ đói nghèo, nhiều gia đình đã khá giả, có tích lũy,
xây dựng được nhà cửa khang trang, sắm sửa nhiều vật dụng có giá trị. Nhiều người
trong họ đã thành lập được công ty, doanh nghiệp làm ăn phát đạt, hiệu quả.
Cũng nhờ đời sống kinh tế phát triển nên con cháu trong họ có điều kiện báo đáp
công ơn tổ tiên như đóng góp đầu tư xây dựng sửa chữa nâng cấp từ đường, lăng mộ
của dòng họ, của phái, của chi và mua sắm các đồ thờ cúng... Cùng với sự phát
triển kinh tế, xã hội đã đưa một phần con cháu của dòng họ đi làm ăn xa quê,
nhiều người đã định cư ở lại các thành phố hay các nơi khác trong nước và nước
ngoài, xu hướng đó làm giảm đi số người còn lại ở quê nhà.
Sự nghiệp học hành của con cháu trong
họ ngày càng phát triển, luôn tiến kịp với xu thế chung của xã hội và từ lâu đã
trở thành truyền thống tốt đẹp của dòng họ Cao Trần, Giao Tiến. Tính đến nay đã
có khoảng 300 người có bằng đại học và nhiều người có bằng Thạc sỹ, Tiến sỹ
trong đó 2 người là Phó Giáo sư. Có những gia đình cả bố con đều là Tiến sỹ, Kỹ
sư, Cử nhân có gia đình 3 thế hệ có tới 20 người có trình độ đại học và trên đại
học... Họ đã thành lập được quỹ Khuyến học để động viên khen thưởng thường
xuyên hàng năm cho con cháu trong họ. Hội Khuyến học tỉnh Nam Định 3 năm liền
(2016 - 2017, 2017 - 2018, 2018 - 2019) đã vinh danh dòng họ Cao Trần, Giao Tiến
là “Dòng họ học tập”.
Văn hóa tâm linh báo đáp tổ tiên như phục dựng lại được các đội tế nam, tế nữ cùng với đầu tư trang phục, đồ tế; đáp ứng tốt cho việc tế tổ hàng năm, các đám hiếu trong họ và đã có nhiều lần tham gia tế tổ ở Diễn Châu, Nghệ An, tổ Trần Nguyên Hãn ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Tổ chức việc giỗ tổ hàng năm (năm chẵn có tổ chức tế), ngày Lễ, Tết và ngày mồng 1 đầu tháng. Tham gia Lễ hội của xã. Duy trì truyền thống Mừng thọ cho những người trong họ tới tuổi 60, 70, 80, 90... vào dịp Tết Nguyên đán. Những người trong họ làm ăn xa quê cũng đã tập hợp tổ chức thành các Chi nhánh dòng họ như ở: Hà Nội, Hải Phòng, Yên Bái, Lào Cai, Vũng Tàu, Bạch Long, Giao Tân, Giao Thiện..., động viên, thăm hỏi, giúp đỡ nhau, tổ chức mừng thọ người cao tuổi, khuyến học, hướng con cháu về cội nguồn, giáo dục truyền thống, tích cực tham gia đóng góp vào các công việc của dòng họ; nhiều chi nhánh còn tổ chức giỗ Tổ vào ngày 18 tháng Giêng. Từ khi kết nối được với dòng họ Trần Pháp Độ, Nghệ An và dòng họ
Trần
Nguyên Hãn, Việt Nam. Các bên thường xuyên qua lại giao lưu thăm viếng, học hỏi,
trao đổi thông tin và tham gia vào các hoạt động của dòng họ như: xây dựng
khánh thành nhà thờ, giỗ tổ, tế tổ, hội nghị, hội thảo, Ban liên lạc dòng họ Trần
Nguyên Hãn... Năm 2008 con cháu họ Cao Trần, Giao Tiến tiến cúng trên 80 triệu
đồng xây dựng từ đường chi tổ Phúc Quảng ở xã Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An
cùng chuông đồng và đồ thờ trị giá 40 triệu đồng. Tiến cúng tiền mua kiệu đền
thờ Trần Nguyên Hãn ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc, đóng góp kinh phí các dịp tế tổ và
quỹ hoạt động của dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam khoảng trên 50 triệu đồng.
Năm 2012 Đại hội đại biểu dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam, lần thứ nhất, nhiệm
kỳ I cụ Cao Văn Bốn là thành viên Hội đồng trưởng lão, cùng 4 thành viên họ Cao
Trần tham gia Thường trực Ban Liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam. Năm
2017 Ban Liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn vinh danh họ Cao Trần, Giao Tiến là: “Tộc họ tinh hoa”
Họ Cao Trần đã có hơn 330 năm trên đất
ấp Hòe Nha, sau là xã Hoành Nha và nay là xã Giao Tiến. Các thế hệ của dòng họ
đều luôn có ý thức ghi chép gia phả truyền lại cho đời sau để biết về nguồn gốc,
về sự nghiệp và truyền thống tốt đẹp của dòng họ. Dù ở bất kỳ thời điểm nào và
hoàn cảnh nào của lịch sử, các thế hệ của dòng họ Cao Trần cũng đều có những
đóng góp công sức xứng đáng vào công cuộc xây dựng, phát triển dòng họ và quê
hương, đất nước.
5 -
Xây dựng từ đường họ và lăng mộ tổ.
Theo câu đối ghi ở từ đường (nhà thờ), thì từ đường họ Cao Trần,
Giao Tiến được xây dựng vào đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa (1681-
1705), có thể vào những năm cuối của niên hiệu Chính Hoà.
Năm 1787 sau một trận lũ lớn, sông
Hồng đổi dòng đổ thẳng ra biển mở ra cửa Ba Lạt mới. Thiên tai nặng nề toàn xã
lại phải tập trung xây dựng lại lần thứ hai. Thời kỳ này từ đường họ cũng phải
di chuyển về đất mới ở Cựu Thượng. Tiếp theo lại chuyển về Thổ Nện, nay là thôn
Bảo Thắng.
Năm vua Tự Đức thứ 26, 27 (1873 -
1874) từ đường họ chuyển về vị trí hiện nay Xóm 8 Quyết Tiến, nay là Xón 4 Giao
Tiến (thôn Cộng Hoà cũ), đây là khu đất
của cành Trưởng. Ông Cao Đăng Phong, ông Cao Danh Quán (đời thứ 7, Giáp phái) cúng tiền và tổ chức huy động tài lực của cả
dòng họ xây dựng thành công nên từ đường khang trang, hai ông còn cúng vào 2 bức
nghi môn bên phái và bên trái từ đường (ngôi
từ đường này đã qua trùng tu nhiều lần
song vẫn còn lại di tích 3 gian bái đường đến năm 2012). Sau vụ Tam trưng
điền án thắng lợi, họ Cao ta được xã cấp cho 2,2 sào đất để làm từ đường ở khu
vực Quán May, đầu thôn Cộng Hòa cũ. Mảnh đất này chưa kịp sử dụng cải cách ruộng
đất năm 1956 đã bị thu lại chia cho dân.
Từ đường họ được trùng tu tôn tạo lần
thứ nhất là thay nhà lợp rạ bằng nhà xây do ông Cao Ngọc Viện (đời thứ 8, Giáp phái) tổ chức. Trùng tu
tôn tạo lần thứ hai do ông Cao Đức Bằng (đời
thứ 8, Ất phái) tổ chức và ông cúng bức nghi môn ở gian giữa từ đường. Sửa
chữa trùng tu lần thứ ba vào đầu thế kỷ XX, do ông Cao Đức Vận (đời thứ 9, Ất phái) phụ trách. Sửa chữa
trùng tu lần thứ tư do ông Cao Văn Huỳnh (đời
thứ 9, Tân phái) phụ trách. Cũng vào thời gian này phần mộ Thái tổ Vô Ý được
chuyển về sân từ đường họ. Vào những năm 70, 80
thế kỷ XX theo quy hoạch chung của xã Giao Tiến họ ta đã tổ chức quy tập
phần mộ tổ tiên từ đời thứ 2 đến đời thứ 6 xây dựng thành khu lăng tại nghĩa
trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Năm 1989 từ đường họ được sửa chữa
trùng tu với sự đóng góp công sức của con cháu trong dòng họ do ông Tôn trưởng
Cao Xuân Thiệu (đời
thứ 10,
Giáp phái), ông Cao Trần Hào (đời thứ 10, Đinh phái)
và ông Cao Văn Bốn (đời thứ 10, cành Thứ)
phụ trách. Năm 1996 các ông kể trên cùng với con cháu trong họ đã tổ chức sửa
sang, tôn tạo lại khu lăng mộ tổ từ đời thứ 2 đến đời thứ 6 và xây dựng đài tưởng
niệm, bia lịch kỷ công ở nghĩa trang Bách Linh. Đây là nơi an nghỉ ngàn thu của
tiền nhân, công trình do ông Cao Uy Tín (đời
thứ 11, Tân phái) thiết kế và chỉ đạo thi công.
Năm 2012 đã bỏ từ đường cũ, làm từ
đường mới trên nền đất cũ theo kiểu cuốn vòm, kết cấu bằng gạch đỏ, vữa xi
măng. Phần khung gỗ của từ đường cũ được dựng lại bên cạnh từ đường mới để làm
nhà lưu niệm và nơi hội họp. Ông Cao Văn Hưu, Tôn trưởng (đời thứ 10, Tân phái); ông Cao
Văn Bốn, Trưởng ban Lễ tiết (đời thứ 10, cành Thứ) phụ trách, cùng với sự tham gia đóng góp của cả dòng họ về công sức
và tiền của. Năm 2012 sau khi xây dựng xong từ đường mới, một lần nữa tôn tạo
tu sửa lại khu lăng mộ tổ ở nghĩa trang Bách Linh khang trang, đẹp đẽ.
Từ đường chính của dòng họ (còn gọi là nhà thờ họ Cả hay nhà thờ Đại tôn) là nơi thờ tổ từ đời thứ 1 đến đời thứ 5 (riêng phái Trưởng đến đời thứ 6). Từ đường còn là nơi tổ chức tế, giỗ tổ hàng năm, mừng thọ người cao tuổi trong họ, cũng là nơi để bàn việc họ và hội tụ con cháu gần xa.
TRÍCH DẪN PHẢ HỆ HỌ CAO TRẦN, GIAO TIẾN.
(Từ đời thứ 1 đến đời thứ 7.
ĐỜI THỨ NHẤT
Thái tổ Cao Quý Công húy Bong, tự Vô Ý
Người sáng nghiệp, khai cơ dòng họ Cao Trần,
xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh
Nam Định.
Ngày giỗ 18 tháng Giêng (không
rõ năm sinh, năm mất).
Mộ được chuyển về an táng tại sân từ đường họ Cả, Xóm 4 Giao Tiến (trước à Xóm 8 Quyết Tiến, thôn Cộng Hoà cũ).
Thái tổ húy Bong (có bản dịch là Bông) gốc họ Trần, ở vùng Bến đò Mía, xã Thịnh Mỹ,
huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa (nay là
thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Năm Quý Hợi (1683), đời Vua Lê Hy Tông (1676 -
1705), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 - 1705), Thái tổ đưa người con trai thứ
hai húy Căn, tự Công Bật đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi
từ họ Trần sang họ Cao.
Nguyên nhân Thái tổ chuyển cư từ châu Ái đến
lập nghiệp ở ấp Hòe Nha và đổi từ họ Trần sang họ Cao đến nay vẫn đang tiếp tục
tìm hiểu.
Thái tổ là Người sáng nghiệp, khai cơ ra dòng
họ Cao Trần, xã Giao Tiến bắt đầu từ đây.
Bà Thái tổ Hoàng
Thị Nhất nương hiệu Từ Tín.
Ngày giỗ:
29 - 9 (không rõ năm sinh, năm mất,
mộ ở quê cũ).
Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.
Ba con trai:
-
Trưởng tự Chân Tính, tập tước Bình
Luận Công, mất sớm mộ ở quê cũ, chưa lập gia đình, ngày giỗ: 19 - 8.
-
Thứ hai huý Căn, tự Công Bật, tập tước Dự Nghĩa Công, theo
Thái tổ ra lập nghiệp ở ấp Hoè Nha.
-
Thứ ba tự Hiếu Lương, mất sớm mộ ở
quê cũ, ngày giỗ: 23 - 8.
Bốn con gái:
- Thứ nhất hiệu Từ Thanh, tục gọi
là bà Độ, ngày giỗ: 3 - 7.
- Thứ hai hiệu Từ Tại, ngày giỗ: 15 - 9.
- Thứ ba hiệu Từ Minh, tục gọi là
bà Thọ, ngày giỗ: 24 - 8.
- Thứ tư hiệu Tiên Hoa Nương, tục
gọi là bà Triều Hữu,
ngày giỗ: 4 - 2.
Thái
tổ cùng bà và các con trai không rõ sự thể đương thời như thế nào? chỉ được gia
phả ghi lại như ở trên. Riêng 4 con gái của Tổ về gia đình và phần mộ cũng đều
không rõ ràng.
ĐỜI THỨ HAI
Thái tôn Cao Quý Công húy Căn, tự Công Bật,
thuỵ viết Phúc Hậu.
Ngày giỗ: 4 - 10.
Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Thái tôn Công Bật là con trai thứ hai của
Thái tổ Vô Ý, được tập tước Dự Nghĩa Công. Năm Quý Hợi
(1683), đời Vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1681 -
1705), Tổ theo cha đến ấp Hòe Nha, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống
và đổi từ họ Trần sang họ Cao.
Năm
Quý Tỵ (1713), đời Vua Lê Dụ Tông (1705 - 1728), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9
(1705 - 1719), Tổ quy hậu Phật ở chùa Hưng Long thôn Chính. Năm Mậu Tuất (1718)
niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14, Tổ quy hậu Phật ở chùa Hưng An thôn Thượng (ghi nhận việc phát tâm công đức của Tổ với chùa
Hưng Long, chùa Hưng An hai chùa đã đặt tượng Tổ để thờ hậu Phật và được lưu giữ
mãi cho đến ngày nay. Đầu thế kỷ XXI hai chùa đã nâng cấp làm lại tượng Tổ mới khang trang hơn). Tổ đã thực hiện được ý cha là sâu rễ, bền gốc ở
nơi quê mới, làm ăn sinh sống lâu dài cùng với các dòng họ khác, lúc bấy giờ ấp Hòe
Nha là vùng đất mới, dân cư còn thưa thớt. Tổ lấy 3
bà và sinh ra đông con nhiều cháu để phát triển dòng họ.
Họ Cao Trần, Giao Tiến bắt
đầu từ Thái tôn Công Bật ngày càng phát triển và thịnh vượng trên vùng quê mới.
Bà Doãn Thị hàng Tam, hiệu Từ Nhân.
Ngày
giỗ: 6 - 11.
Mộ
quy lăng cùng với tổ ông.
Bà
là con gái thứ ba họ Doãn, quê ở xã Hoành Lộ.
Ông bà sinh được: 2 con
trai và 1con gái.
Hai con trai:
- Trưởng huý Diệu, tự Trung Trực,
mất sớm,
ngày giỗ: 5 - 7.
- Thứ hai húy Sâm, tự Công Cái.
Con gái:
- Hiệu Từ Hạnh, tục gọi là bà Sinh,
ngày giỗ: 16 - 6.
Bà hai Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Duyên.
Ngày
giỗ: 19 - 7.
Mộ
không rõ ở đâu.
Ông bà sinh được: 2 con
trai và 1 con gái.
Hai con trai:
- Trưởng
húy Lộc, tự Công Tuyển.
- Thứ hai húy Lợi, đổi là Công Lại, tục gọi là
ông Thâu.
Con gái:
-
Thị Lựu, hiệu Từ Nghiêm, tục gọi là bà Bạ Liêu,
ngày giỗ: 17 - 4
Bà ba Nguyễn Thị hàng..., hiệu Từ Hiền.
Ngày
giỗ: 23 - 8.
Mộ
không rõ ở đâu.
Ông bà sinh được: 2 con
trai, 1 con gái.
Hai con trai:
- Huý Nhĩ, đổi là Toại; huý…,
cả 2 mất sớm.
Con gái:
- Hiệu Diệu Tư, tục gọi là bà Vãng, ngày
giỗ: 15 - 1
ĐỜI THỨ BA
CÀNH TRƯỞNG
3. 1.1 -
Cao Quý Công húy Sâm,
tự Công Cái,
thuỵ Giảng Vũ.
Ngày
giỗ: 5 - 12.
Mộ
quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ hai tổ Công Bật, tục gọi là cụ Tri. Xuất thân làm Trùm trưởng
giáp sau thăng chức Tri sự.
Bà Hoàng Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Trang.
Ngày
giỗ: 9 - 7.
Mộ
quy lăng cùng với ông.
Bà
quy hậu phật chùa Hưng An, thôn Thượng.
Ông bà sinh được: 2 con
trai, 3 con gái, nuôi 1 con trai.
Hai con trai:
- Trưởng
là Bá Hân, tự Huệ Phương.
- Thứ hai là Trọng Viêm.
Con trai nuôi:
- Húy là Khoái,
tự Hiếu Điền, mất sớm.
Ba con gái:
- Thị Phi, hiệu Từ Thục, tục gọi là bà Bạ.
- Thị Ổn, hiệu Từ Quý, tục gọi là bà
Sở Khoản.
- Thị Ánh, hiệu Nhân Hậu, đạo hiệu
Huyền Tiên, tục gọi
là bà Sự Ly Kỳ (làm phù thủy).
Bà hai Lê Thị hàng Nhất, hiệu Đoan Nghiêm.
Ngày
giỗ: 25 - 5. Mộ
không rõ ở đâu.
Bà
là người ở xã Hoành Tứ. Bà quy hậu phật chùa Hưng Long, thôn Chính. Bà không có
con.
ĐỜI THỨ TƯ CÀNH TRƯỞNG
4. 1.1 - Cao Quý Công húy Bá Hân, tự Huệ Phương, thuỵ viết Đạt Đạo.
Ngày giỗ: 24 - 1.
Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2
Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Công Cái. Đương thời
ông làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã sau làm Tri sự điện tiền.
Bà Vũ Thị hàng Nhất húy Chinh, hiệu Trường Đức.
Ngày giỗ: 29 -
3. Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà
là con gái cụ Điện Quách họ Vũ.
Ông bà
sinh được: 6 con trai và 4 con gái.
Sáu
con trai:
- Trưởng húy Phác, tự Bá Tuân.
- Thứ hai húy Ngụy,
đổi là Trọng Chuân.
- Thứ ba húy Tỵ, đổi
là Trọng Cẩn.
- Thứ tư húy Tý, tự
Trọng Thuyên.
- Thứ năm húy Tuất,
tự Trọng Quang.
- Thứ sáu húy Thục,
tự Thời Mại.
Bốn con gái:
- Thị Nghi, hiệu Đoan Thuận, tục gọi là
bà Điện Sự.
- Thị Nghĩ, hiệu Diệu Tư, tục gọi là bà
Sự Đảng hai.
- Thị Cáy, hiệu Từ Quang, tục gọi là bà
Tú Dương.
- Thị Soạn, hiệu Từ Minh, lấy
ông ở xã Lãng Lăng (nay là xã Xuân Đài), tục gọi là bà Tú Kính.
ĐỜI THỨ NĂM CÀNH TRƯỞNG
5. 1.1 - Cao Quý Công húy Phác, tự Bá Tuân, thụy Trung Chính.
Ngày giỗ: 23 - 4.
Mộ quy lăng họ Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2
Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ
Huệ Phương. Đương thời làm Trùm trưởng giáp, Nhiêu ấm xã sau làm Thập lý hầu.
Khi đương chức, xã ta bị giặc Mèo (Miêu tặc)
đến quấy phá cướp bóc, ông đã tổ chức và chỉ huy dân làng đánh tan bọn giặc cướp.
Sau 7 ngày, đêm chiến đấu liên tục, ông đã hy sinh. Ông có tinh thần trách nhiệm
cao, vì nghĩa quên mình, nêu tấm gương tiêu biểu trước nhân dân. Ông mất đi
nhưng tiếng thơm còn mãi, con cháu phồn thịnh đời đời phát triển cũng nhờ nền
nhân đức kế thừa (lới án của Cao Vĩnh
Phúc).
Bà Hoàng
Bá Thị húy Giáng, hiệu Đoan Chất.
Ngày giỗ: 4 - 7. Mộ
quy lăng cùng với ông.
Ông bà sinh được: 6 con trai và 2 con
gái.
Sáu con trai:
- Trưởng húy Dao, tự
Đăng Dụng.
- Thứ hai húy Sỹ, tự Đức Mậu.
- Thứ ba húy Mòng, tự Đức
Giản.
- Thứ tư húy Phúc, hiệu
Đức Tuấn.
- Thứ năm húy Nghị, tự
Đức Tú.
- Thứ sáu húy Ruyên, đổi
là Đức Thiệu.
Hai con gái:
- Thị Quyện, hiệu Từ Thận, tục gọi là
bà Tổng Trực.
- Thị Thái, hiệu Từ Hòa, tục gọi là
bà Sự Sỹ.
ĐỜI THỨ SÁU
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ HAI (Ất phái)
6. 1.2.2 - Cao Nghiêm đường húy Sỹ, tự Đức Mậu, hiệu Mẫn Trực.
Sinh năm:
Tân Tỵ (1761), niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 22.
Mất ngày:
1 - 8 năm Quý Tỵ (1833), Minh Mạng thứ 14, thọ 73 tuổi. Mộ quy lăng họ
Cao Trần, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Bá Tuân.
Triều Lê ông làm Cai hợp Thập
lý hầu, triều Nguyễn Gia Long làm
Xã trưởng.
Đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), sau
biến cố Ba Lạt năm 1787, sông Hồng đổi cửa
(còn gọi là Ba Lạt phá hội), làng xã định hình lần thứ hai, dân xã Trà Lũ,
huyện Xuân Trường vượt sông Sò đến tranh chiếm cánh đồng bãi Phù sa, gần 500 mẫu
ruộng của xã nhà. Với tư cách là Xã trưởng, ông đã cùng với các ông trong họ,
trong xã đứng đầu là Tổng trưởng Đinh Danh Trực (theo Phù sa điền án có tất cả 19 người tham gia) đại diện cho toàn
xã tham gia tố tụng vượt cấp lên tổng trấn Bắc Thành (có tài liệu ghi vào cả kinh
đô Huế). Qua nhiều năm đấu tranh gian khổ kết thúc thắng lợi vào năm Gia
Long thứ 13, Giáp Tuất (1814) đã lấy được ruộng về cho dân xã nhà (xem tài liệu Tham khảo Gia phả và Phú ý họ
Cao Trần, năm 2018).
Ông còn có nhiều đóng góp xây dựng
các công trình văn hóa, xã hội của địa phương để lại cho đời sau như tổ chức
quyên góp và chủ trì đúc chuông chùa Hưng An thôn Thượng (nay là Xóm 5,6 Quyết Tiến) vào năm Kỷ Sửu 1829. Văn bia chuông
chùa Hưng An thôn Thượng là chứng tích (lời
án tổ Biên tập thế phả họ, cháu Cao Xuân Thiệu kính ghi. Xem thêm tài liệu Tham
khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, năm 2018).
Bà Vũ
Thị hàng Tam húy Sính,
hiệu Đoan Thục Nhu Nhân.
Sinh năm:
Nhâm Thìn (1772), niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 33.
Mất ngày:
6 - 10 - năm Tân Sửu (1841), thọ 70
tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Châu Huyên họ Vũ.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 5 con gái.
Bốn con trai:
- Trưởng húy Quyến, sau đổi là Đức Trứ.
- Thứ hai húy Thiệm, sau đổi
là Đức Nhuận.
- Thứ ba húy Miên, sau đổi
là Đức Trạch.
- Thứ tư húy Kiên, sau đổi
là Đức Thịnh.
Năm con gái:
- Thị Phiếm, hiệu Thục Huệ, lấy ông Xã Điển
họ Hoàng.
- Thị Thông, lấy ông Hương Đạt họ Vũ.
- Thị Thanh, hiệu Quang Thục, lấy ông Lý Sảnh
họ Hoàng.
- Thị Nhị, hiệu Cần Kiệm, lấy ông Đồ Đôn họ
Phạm, Hoành Tứ.
- Thị Thuyết, lấy ông Hiệp Thể họ Lê thôn
Chính.
ĐỜI THỨ BẢY
CÀNH TRƯỞNG - PHÁI THỨ
HAI (Ất phái)
7. 1.2.6 - Cao Quý Công húy Đức Trứ,
tự Công Nhân, hiệu Văn Đạt Tiên Sinh.
Sinh năm: Đinh Mùi (1787), niên hiệu Lê Chiêu Thống năm
thứ 1.
Mất ngày: 29 - 12 năm Giáp Ngọ (1834), niên hiệu Minh
Mạng thứ 15 (1820 - 1840), hưởng 48 tuổi.
Mộ quy lăng chi
Trưởng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là
con trai trưởng cụ Đức Mậu, húy Quyến sau đổi là Đức Trứ. Ông thông minh, chữ
viết tốt, theo thi thư không đạt, làm Phó Cai tổng lúc 20 tuổi. Khi đương chức
ông cùng với cha là Cao Đức Mậu, cộng sự với các ông trong xã, tham gia vụ án:
dân xã Trà Lũ, Xuân Trường tranh chiếm gần 500 mẫu ruộng ở cánh đồng bãi Phù
sa. Đến năm Gia Long thứ 13, Giáp Tuất (1814) đã dành thắng lợi lấy được ruộng
về cho dân xã nhà (xem tài liệu Tham khảo
Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, năm 2018).
Ông tham gia
biên lập địa bạ xã Hoành Nha, hoàn thành năm Minh Mạng thứ 10 (1829), cùng với
các ông: Lê Huy Tuấn (Cai tổng), Cao Đăng Phong (Lý trưởng), Cao Đức Nhuận
(Thôn trưởng); Hương mục: Vũ Đình Lựu, Cao Đức Trứ, Lê Huy Bỉnh (theo tài liệu Địa bạ xã Hoành Nha).
Ông viết Văn bia chuông chùa Hưng An,
thôn Thượng năm Kỷ Sửu 1829 (xem tài liệu
Tham khảo Gia phả và Phú ý họ Cao Trần năm 2018).
Bà Hoàng Thị húy Dừa, hiệu Trinh Ý Nhu Nhân.
Mất ngày:
24 - 5, thọ 76 tuổi. Mộ quy lăng
cùng với ông.
Bà là con gái cụ Bạ Lĩnh họ Hoàng, thôn Thượng
(thôn Cộng Hòa).
Ông bà sinh được: 4 con trai và 4 con gái.
Bốn
con trai:
- Trưởng là Đức Chí.
- Thứ hai là Đức Bằng.
-
Thứ ba là Đức Thiệm.
-
Thứ tư là Đức Tộ, mất sớm.
Bốn
con gái:
- Thị Truyền, lấy ông Chánh Đồng họ Vũ,
thôn Thượng.
- Thị Thép, lấy ông Bá Đệ ở xã Hoành Tứ.
- Thị Tú, lấy làm hai ông Chánh Đồng họ
Vũ, thôn Thượng.
- Thị Gang, mất sớm.
Bà hai Nguyễn Thị húy Nhị, hiệu Hoa Phương.
Ngày giỗ:
10 - 6. Mộ quy lăng cùng ông.
Bà là con gái cụ Biện Tán họ Nguyễn ở xã Quất Lâm. Ông bà sinh được 1con trai: Đức Nghị.
PHẦN THỨ HAI
PHẢ HỆ PHÁI TỔ
CAO ĐỨC THIỆM
(PHẦN
CHI TIẾT)
1 - Từ Đời thứ 8 đến Đời thứ 15.
2 - Chia thành 5 chi (đời thứ 9 phân Chi).
3 - Cách ghi mã số:
- Cụm số thứ nhất chỉ thứ tự các Đời.
- Cụm số thứ hai chỉ thứ tự
các Chi.
- Cụm số thứ ba chỉ thứ tự
các Nhánh trong Chi
(đời thứ 10 phân
Nhánh).
- Cụm số thứ tư chỉ thứ tự số
người trong một Đời.
ĐỜI THỨ TÁM
Bát đại Tổ Cao Công húy Đức Thiệm, hiệu Hoạt Tế Y Sỹ.
Sinh năm:
Kỷ Mão (1819).
Mất ngày:
3 - 12 năm Canh Thân (1860), hưởng
42 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ ba tổ Cao Đức Trứ, làm
Hương mục xã, tính thuận hòa giản dị. Bình sinh ông làm Thầy thuốc Đông y nổi
tiếng, tinh thông cả về mạch và châm cứu,
là Lương mục bản xã. Sau khi ông qua đời mọi người đều tiếc tài của ông.
Bà Lê Thị hàng Nhị húy Nguyện, hiệu Đoan Thành
Nhụ Nhân.
Sinh năm:
Giáp Thân (1824).
Mất ngày:
21 - 7 năm Giáp Thìn (1904), thọ 81 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Chiêu Phổ họ Lê, thôn
Chính.
Ông bà sinh được: 4 con trai, 4 con gái và nuôi 1 con trai.
Bốn
con trai:
- Trưởng Cao Đức Quảng, đổi là Đức Vận.
- Thứ hai là Cao Đức Khóa.
- Thứ ba Cao Đức Niệm, con nuôi tổ Cao Đức
Bằng.
- Cao Đức Bồi, mất sớm.
Con
trai nuôi:
- Cao Đức Vang, quê ở
Thái Bình.
Bốn
con gái:
- Trưởng Cao Thị Phương, lấy ông Lý
Thuật họ Phạm, xã Hoành Tam.
- Thứ hai Cao Thị Vá, lấy ông Vũ
Ruy Lý trưởng, thôn Trung.
- Thứ ba Cao Thị Miên, lấy ông Nhất
Uyển, xã Hoành Đông.
- Thứ tư Cao Thị Xuyến, mất sớm.
ĐỜI THỨ CHÍN
9. 1.1 -
Cao Công húy Đức Vận,
tự Tử Hội, hiệu Thanh
Hòa Xử Sỹ.
Sinh ngày: 24 - 6 năm Nhâm Tý (1852).
Mất ngày: 20 - 5 năm Canh Ngọ (1930), thọ 79 tuổi).
Mộ quy Hoạt Tế
Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai
trưởng cụ Cao Đức Thiệm, huý Đức Quảng sau đổi là Đức Vận. Sinh thời thi đỗ
Khóa sinh sau làm Suất đoàn xã, trong vùng có giặc nổi lên ông được cử chỉ huy
khoảng 50 suất đinh canh giữ trong xã, đã bắt được 1 tên tướng giặc nộp lên cấp
trên và xã ta được thưởng 1 vụ không phải nộp thuế. Ông phụ trách trùng tu sửa
chữa từ đường họ Cả vào đầu thế kỷ XX.
Bà Vũ Thị húy Phức, hiệu Anh Hương Nhụ
Nhân.
Sinh năm: Ất Mão (1855).
Mất ngày: 8 - 5 năm Quý Dậu (1933), thọ 79 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ
Lý Huy họ Vũ ở giáp Giữa, thôn Thượng.
Ông bà sinh được: 5 con trai và 3 con
gái.
Năm
con trai:
-
Trưởng là Cao Duy Tân.
-
Thứ hai là Cao Chi Tái.
-
Thứ ba là Cao Đức Bỉnh.
-
Thứ tư là Cao Đức Biểu.
- Cao Viết Mô, mất sớm.
Ba con gái:
- Thứ nhất Cao Thị Tu, lấy ông Xã Bính họ
Hoàng, thôn Thượng.
- Thứ hai Cao Thị Tề, lấy ông Nho Khám họ Mai,
thôn Chính.
- Thứ ba Cao Thị Phê, lấy ông Hào Hưởng họ Trần,
xã An Cư, huyện Xuân Trường.
9. 2.2 - Cao
Công húy Đức Khóa,
tự Khuyến Nông, hiệu Mỹ Tế Phủ Quân.
Sinh ngày: 9 - 1 năm Bính Thìn (1856).
Mất ngày: 22 -
8 năm Quý Hợi (1923), thọ 68 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế
Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ
Cao Đức Thiệm. Đương thời thi đỗ Khóa sinh và làm Suất đoàn xã.
Bà Hoàng
Thị húy Hột, hiệu Từ Chính Nhụ Nhân.
Sinh năm: Canh
Thân (1860).
Mất ngày: 17 - 12 năm Mậu Thìn (1928), thọ 69 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Đội Cung họ Hoàng,
thôn Thượng.
Ông bà sinh được: 5 con trai:
- Trưởng là Cao Trung Đảng.
- Thứ hai là Cao Trung Hứa.
- Thứ ba là Cao Trung Kế.
- Thứ tư là Cao Trung Thụy.
- Thứ năm là Cao Trung Đang.
9. 3.3 - Cao Công húy Đức Niệm, tự Linh Đài, hiệu Đức Tế.
Mất ngày:
28 - 8, hưởng 53 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm
5 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Thiệm, làm
con nuôi bác ruột là cụ Cao Đức Bằng. Bình sinh ông làm thuốc Đông y, tinh
thông Y nghiệp.
Tổ tỷ Vũ Thị húy Huyến, hiệu Đoan Lương.
Mất
ngày: 28 - 4, hưởng 51 tuổi.
Mộ quy
lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Đồ Xuân họ Vũ, thôn Chính.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 4 con gái.
Hai con
trai:
- Trưởng là Cao Đức Vựng.
- Thứ hai là Cao Đức Riễm.
Bốn con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Mèo, lấy
ông Vũ Đức Ấm ở giáp Đông, thôn Thượng. Sinh được 2 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Riệp, lấy chồng
ngoài Bể. Sinh được 3
con trai và 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Thạch, Mất ngày 14
- 1.
- Thứ tư là Cao Thị Ngõa, có chồng,
mất sớm, ngày giỗ 14 - 4.
9. 4.4 - Cao Công húy Đức Vang, hiệu
Phúc Lương Phủ Quân.
Mất ngày: 20 -
3.
Mộ quy lăng của
Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.
Ông là con trai nuôi
cụ Cao Đức Thiệm là người họ Nguyễn quê gốc ở thôn Bình Cách, xã Đông Xá, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Ông tham gia Nghĩa dũng
quân của Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị đi đánh giặc được cấp bằng Đội trưởng.
(Năm 1950 ông Cao Văn Nghiêm là cháu có tìm về
quê cũ nhưng gia đình anh em không còn ai sau đó đã rước chân hương em trai, em
gái ông Đức Vang là Nguyễn Công Tự, Nguyễn Thị Hằng về bên quê mới ở xã Giao Tiến
để phụng thờ).
Bà
Vũ Thị húy Cõn, hiệu Nho Chất Nhu Nhân.
Mất ngày: 5 - 10.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Vũ Văn Sinh, thôn
Chính.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con
gái.
Hai
con trai: - Trưởng là Cao Đức Lừng.
- Thứ hai là Cao Đức Lẫy.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Chích, lấy
ông Nguyễn Văn Đào, làng Hành Quán, huyện Nam Trực. Sinh được 1 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Sẻ, lấy
ông Nguyễn Văn Liên, thôn Thống Nhất. Sinh được 1 con trai.
- Thứ ba là Cao Thị Chợ, lấy ông Doãn Văn Phương, thôn Thống Nhất. Sinh được 1 con trai.
ĐỜI THỨ MƯỜI
A - CHI TRƯỞNG
10. 1.1.1 - Cao Công húy Duy Tân, tự Sử Dân, hiệu Đại Tế Phủ Quân.
Sinh ngày: 26 - 10 năm Ất Hợi (1875).
Mất ngày:
23 - 2 năm Canh Thìn (1940), thọ 66 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức
Vận, làm Xã đê. Ông giúp đỡ những người đấu tranh vì quyền dân sinh (1932 -
1936) đó là đòi quân cấp ruộng công điền cho dân nhưng không thành. Khi xã có tổ
chức cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo (ông Vũ Đức Âu, thôn Việt Dũng) ông
tích cực ủng hộ. Ông tham gia Ban kiến thiết miếu thôn Thượng năm 1938 - 1940.
Nhận đỡ đầu ông Đinh Ruy ở xã An Cư, Xuân Trường
vào họ Cao.
Bà Lưu Thị húy Hoan, hiệu Diệu Hỷ Nhụ Nhân.
Sinh năm: Canh Thìn (1880).
Mất ngày:
11 - 4 năm Quý Mão (1963), thọ 84 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà
là con gái cụ Nhị trường Lưu Công Khuyến, xã Thanh Khiết, nay là xã Giao Yến.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.
Con trai:
- Cao Xuân Hạ.
Bốn con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Phàn, lấy ông Lê
Văn Chiễu, thôn Quyết
Tiến. Sinh được 3 con trai (trong
đó có 2 là liệt sỹ) và 3 con gái. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu: “ Bà mẹ
Việt Nam anh hùng”.
- Thứ hai là Cao Thị Đỉnh, lấy ông
Hoàng Văn Tịch, thôn Cộng
Hòa, nay là Xóm 4 Giao Tiến. Sinh
được 3 con trai và 4 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Khương (mất
sớm).
- Thứ tư là Cao Thị Sam (mất
sớm, ngày 14 - 8).
10. 1.2.2 - Cao Đường húy Chi Tái, hiệu Hiếu Mục Phủ Quân.
Sinh ngày:
23 - 10 năm Quý Mùi (1883).
Mất ngày:
30 - 1 năm Đinh Tỵ (1917), hưởng 35 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Vận.
Bình sinh ông làm Xã đê.
Bà Bùi Thị húy Đễ, hiệu Từ Huệ.
Sinh năm:
Ất Dậu (1885).
Mất ngày:
5 - 2 năm Giáp Tuất (1934), hưởng 50 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Lý Duyên họ Bùi, xã Hiệt Củ nay là xã Giao Tân.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 2 con gái.
Hai con trai:
- Trưởng là Cao Chi
Ry.
- Thứ hai là Cao Chi
Phạng.
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Sỳ, lấy
ông Hoàng Văn Huyên, thôn Cộng Hòa. Sinh được 5 con trai và 4 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Trung (mất
sớm).
10. 1.3.3 - Cao Công húy Đức Bỉnh,
tự Bát
Tế, hiệu Tự Trọng.
Sinh năm:
Kỷ Sửu (1889).
Mất ngày:
2 - 11 năm Giáp Thân (1944), hưởng 56 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Vận.
Ông là người thông minh, văn hay chữ tốt, thông kinh sử, giỏi về lý số, có trí
nhớ tuyệt vời và tài kể truyện. Sinh thời làm Hương nho và mở lớp dạy học ở
nhà. Ông còn tinh thông cả nghề thuốc Đông y: kê đơn, bốc thuốc.
Bà Phạm Thị húy Ngân, hiệu Hữu Kim.
Mất ngày:
6 - 12 năm Bính Tý (1936).
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà
là con gái cụ Lý Thạc họ Phạm, xã Đắc Sở, nay là xã Giao Châu.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 5 con gái.
Hai con
trai:
- Trưởng
là Cao Văn Cẩm (Văn Sáng).
- Thứ hai là Cao Văn Tiên (Khắc Vũ).
Năm con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ân (mất sớm).
- Thứ hai là Cao Thị Vân, lấy chồng ở Quảng
Đông,Trung Quốc.
- Thứ ba là Cao Thị Thừa, lấy chồng ở Quảng
Tây,Trung Quốc.
- Thứ tư là Cao Thị Cúc, lấy ông Trần Văn Thỉnh,
thôn Phương Độ,
phường Hồng Châu, thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên. Sinh được 1 con trai, 6 con gái.
- Thứ
năm, cho người bên đạo nuôi khi đó khoảng 2 tuổi, đến nay không có thông tin.
10. 1.4.4 - Cao Công húy Đức Biểu, hiệu An Nhẫn.
Sinh năm: Nhâm Thìn (1892).
Mất ngày: 7 -
4 năm Ất Dậu (1945), hưởng 54 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Đức Vận. Sinh
thời làm Hương nho.
Bà Trần Thị húy Cõn, hiệu Từ Hiền.
Mất
ngày: 14 - 1, thọ 80 tuổi. Mộ quy lăng
cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Viên Lễ họ Trần, xã Lạc Nghiệp, h. Xuân Trường.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con
gái.
Ba
con trai:
- Trưởng là Cao Văn Tri.
- Thứ hai là Cao Văn Tởi.
- Thứ ba là Cao Lương Sách.
Ba con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ngắn, lấy ông
Oánh ở tỉnh Thái Bình. Sinh được 5 con trai và 2 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Tý (lớn), lấy
ông Nguyễn Hành, thôn Quy Chính. Sinh được 2 con trai và 3 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Tý (bé), lấy ông
Tiên, xã Giao Thanh. Sinh được 2 con trai và 4 con gái.
B - CHI
THỨ HAI
10. 2.1.5 - Cao Công húy Trung Đảng, tự Bá Thuần.
Sinh năm: Quý Mùi (1883)
Mất ngày:
17 - 3 năm Ất Dậu (1945), thọ 63 tuổi.
Mộ quy
Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Đức Khóa. Sinh ông thời làm Xã đê.
Bà Mai Thị
hàng Tam húy Mép, hiệu Từ Thực.
Mất
ngày: 17 - 4. Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Lý Khải họ Mai, thôn Quy Chính.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.
Ba con trai: -
Trưởng là Cao Trung Ngữ.
- Thứ hai là Cao Trung Điều.
- Thứ ba là Cao Trung Khiển (1922 -
21.7.1927).
Bốn
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Lợn, mất ngày 26
- 7. Trước lấy ông Nguyễn Nghễ chết, sau lấy ông Xã Đĩnh, thôn Bảo Thắng. Sinh
được 2 con trai, 1 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Gà, lấy ông Nhương
con ông Nhang Tường.
- Thứ ba là Cao Thị Vịt, mất ngày 14 -
11, lấy ông Nguyễn Nhưỡng, thôn Quyết Tiến. Sinh được 4 con trai và 1 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Thêm, lấy ông Vũ Tiễu,
thôn Chiến Thắng. Sinh được 2 con trai và 2 con gái.
10. 2.2.6 - Cao
Công húy Trung Hứa, tự Đạo Lý, hiệu
Cương Mẫn Phủ Quân.
Mất ngày:
13 - 4.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Khóa. Sinh
thời làm Xã tuần.
Bà Phạm Thị húy Riểu, hiệu Diệu Nhu.
Mất ngày:
29 - 2. Mộ quy lăng cùng với
ông.
Bà là con gái cụ Đồ Ghi họ Phạm, thôn Quyết
Tiến.
Ông
bà sinh được: 3 con trai và 6 con gái.
Ba con
trai:
- Trưởng là Cao Trung Tránh.
- Thứ hai là Cao Trung Thoại, mất sớm (26 -
4).
- Thứ ba là Cao Trung Ngọ.
Sáu con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Cóc, lấy
ông Đội Liêm, thôn Chính.
- Thứ hai là Cao Thị Trù, mất sớm
(15 - 1).
- Thứ ba là Cao Thị Vượn (tức
Phượng), mất ngày 15 - 10 -
2002, thọ 81 tuổi, lấy
ông Hoàng Cang, thôn Toàn Thắng. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.
-
Thứ tư là Cao Thị Sói (tức Thái), sinh năm 1925, mất ngày 20 - 2 - 2003, thọ 79
tuổi, lấy ông Hoàng Viện thôn Quyết Tiến. Gia đình sinh sống ở thành phố Hải
Phòng. Sinh được 2 con trai (1 là liệt sỹ).
- Thứ năm là Cao Thị Sỏi, sinh năm 1926, mất
ngày 13 - 1 - 2008, thọ 83 tuổi, lấy ông Phạm Duyệt, thôn Quyết Thắng. Sinh được
3 con trai và 2 con gái.
-
Thứ sáu là Cao Thị Tám, sinh năm 1933, mất ngày 24 - 6 - 1994, thọ 62 tuổi, lấy
ông Nguyễn Đông, thôn Quyết Tiến. Gia đình ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sinh được
6 con trai (1 liệt sỹ), 4 con gái.
10. 2.3.7 - Cao Công húy Trung Kế, tự
Minh Đạo, hiệu Thiện Trai Phủ Quân.
Sinh năm: Quý Tỵ (1893).
Mất ngày:
23 - 12 năm Nhâm Thân (1932), hưởng 40 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức
Khóa. Ông tham gia tố tụng vụ tham nhũng công điền của bọn lý dịch kỳ hào trong
xã năm 1932 cùng với các ông Cao Đức Thố, Vũ Trác vì quyền lợi của dân nhưng
không thành, ông phẫn chí đi tòng Giáo (nhà thờ Giáp Nam, xã Giao Châu).
Bà Vũ
Thị húy Vấn.
Mất
ngày: 3 - 4 năm Ất Dậu (1945). Mộ quy
lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Nhang Tường họ Vũ, thôn Quyết Thắng.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.
Hai
con trai:
- Trưởng là Cao
Văn Phủng, mất sớm.
- Thứ hai là Cao
Văn Lũy, mất sớm.
Ba con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ngan, mất ngày 20 - 8, lấy ông Vũ Soạn (chết), sinh được 1
con trai. Sau lấy ông Xã Đĩnh họ Lê thôn Bảo Thắng, sinh được 1 con trai và 1
con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Ngỗng, sinh năm
1922, mất ngày 12 - 1- 2008, thọ 87 tuổi, lấy ông Vũ Văn Hành, thôn Quyết Thắng.
Sinh được 4 con trai và 2 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Két, lấy ông Mai
Liên, thôn Đoàn Kết. Bà không có con.
10. 2.4.8 -
Cao Công húy Trung Thụy, tự Ý Đức,
hiệu Trí Mạnh.
Sinh năm: Mậu Tuất (1898).
Mất ngày: 4 - 7 năm Mậu Dần (1938), hưởng 41 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Đức Khóa.
Sinh thời năm 1920 đi lính khố xanh, đưa gia đình lên sinh sống tại phố Chũ,
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Năm 1926 bỏ lính về làm ăn cùng gia đình. Năm
1938 bị bệnh và mất ở tỉnh Bắc Giang.
Bà Lê Thị hàng Nhất húy Sửu, hiệu
Đoan Hòa Nhụ Nhân.
Sinh
năm: Tân Sửu (1901).
Mất
ngày: 1 - 3 năm Nhâm Tuất (1922), hưởng
22 tuổi.
Mộ quy
lăng cùng với ông,
Bà là
con gái cụ Xã Oánh họ Lê, thôn Thống Nhất, mất sớm.
Bà kế Lê Thị húy Nhợi, hiệu Đoan Trang.
Sinh năm: Giáp Thìn (1904).
Mất ngày: 26 - 1 năm Mậu Thìn (1988), thọ 85 tuổi.
Mộ
quy lăng cùng với ông.
Bà
là con gái cụ Trương Bổng họ Lê, thôn Thống Nhất.
Ông bà
sinh được 1 con trai:
- Cao Hưng Lợi.
10. 2.5.9 - Cao Công húy Trung Đang, hiệu Thuần Hậu Phủ
Quân.
Sinh năm: Tân Sửu (1901).
Mất ngày:
10 - 1 năm Ất Tỵ (1965), thọ 65 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ năm cụ Cao Đức Khóa.
Bà Hoàng Thị húy Ngởn, hiệu Từ Năng Nhụ Nhân.
Sinh năm: Tân Sửu (1901).
Mất ngày:
16 - 12 năm Ất Tỵ (1965), thọ 65 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Nhất Rĩnh họ Hoàng, thôn Cộng
Hòa.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.
Ba con trai:
- Trưởng là Cao Văn Giới.
- Thứ hai là Cao Văn Tìu, mất sớm.
- Thứ ba là Cao Văn Tiu.
Bốn con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Mứt, lấy ông Bạ ở
thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Sinh được 2 con trai
- Thứ hai là Cao Thị Kẹo, lấy ông Phạm
Văn Thái, thôn Đoàn Kết. Sinh được 4 con trai và 3 con gái. Gia đình sinh sống ở
xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Thứ ba là Cao Thị Bắc, lấy
ông Vũ Văn Cường, thôn Thống Nhất. Sinh được 4 con trai, 4 con gái. Gia đình định
cư ở thôn 5 xã Xuân Giao huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Thứ tư là Cao Thị Hựu, mất ngày 18 - 3 -
2002. Trước lấy ông Phạm Văn Hạp, thôn Quyết Tiến, sau lấy ông Đoàn Văn Cầm,
thôn Hà Cát, xã Hồng Thuận. Sinh được 2 con trai và 2 con gái.
C - CHI THỨ BA
10. 3.1.10 - Cao Công húy Đức Vựng, hiệu Bình Thuận.
Sinh năm:
Quý Tỵ (1893).
Mất ngày:
5 - 12 năm Canh Tý (1960), thọ
68 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm
5 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Niệm. Sinh
thời ông làm ruộng và
buôn bán tơ tằm ở quê.
Bà Vũ
Thị húy Vịt (Cạc).
Sinh
năm: Nhâm Thìn (1892).
Mất
ngày: 17 - 3 năm Giáp Dần (1974), thọ
83 tuổi.
Mộ quy
lăng cùng với ông.
Là con
gái cụ Lái Vạn họ Vũ, thôn Toàn Thắng, làm ruộng và buôn bán tơ tằm cùng với
ông.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.
Bốn con trai:
- Trưởng là Cao Thái Lai (1925 - 20.9.1937).
- Thứ hai là Cao Văn Hào (1929 - 20.10.1939).
- Thứ ba là Cao Xuân Phiêu.
- Thứ tư là Cao Đức Lâm (1936 - 9.1943).
Con gái:
- Cao Thị Lác, sinh năm 1923, mất ngày 4
- 8 - 1975.
10. 3.2.11 - Cao Công húy Đức Riễm.
Mất
ngày: 5 - 10.
Mộ an
táng ở xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Đức Niệm. Khoảng năm 1945 ông đưa gia đình lên định cư
làm ăn sinh sống bằng nông nghiệp, thôn Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên
Bái, tỉnh Yên Bái.
Bà
Vũ Thị húy Thoi.
Ngày giỗ: 5 -
10.
Năm 1948 chết mất tích, ngày giỗ lấy theo ngày
giỗ của ông.
Bà là con gái cụ Khóa Ngôn họ Vũ.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.
Hai con
trai:
- Trưởng là Cao Văn An.
- Thứ hai là Cao Văn Lan.
Con gái:
- Cao Thị Cún, mất sớm.
D - CHI THỨ TƯ
10. 4.1.12 - Cao Công húy Đức Lừng, hiệu Phúc Lộc.
Sinh năm: Nhâm Ngọ (1882).
Mất ngày:
24 - 6 năm Ất Dậu (1945), thọ 64 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm
12 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Vang.
Bà Hoàng Thị húy Na, hiệu Cần Kiệm.
Sinh năm: Bính Tuất (1886).
Mất ngày:
19 - 4 năm Ất Dậu (1945), thọ 60 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Hoàng Trần, thôn Cộng Hòa.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.
Bốn con
trai:
- Trưởng là Cao Ngọc Xướng.
- Thứ hai là Cao Văn Nghiêm.
- Thứ ba là Cao Văn Cu, mất sớm.
- Thứ tư là Cao Đức Xương.
Con gái:
- Cao Thị Lê, Mất ngày 16 - 11, hưởng
18 tuổi. Lấy ông Nguyễn Lệ, thôn Trung, chưa kịp cưới, còn cách 2 ngày thì chết.
10. 4.2.13 - Cao Công húy Đức Lẫy, hiệu Hữu Thanh.
Mất ngày:
27 - 5, hưởng 35 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm
12 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Vang.
Bà ... Không rõ họ tên.
Ông mất, bà xuất giá lấy ông Nguyễn Lĩnh,
thôn Thống Nhất.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Văn Bò.
Con gái: - Cao Thị Man, lấy ông Vũ Văn Tuần, thôn Thượng.
ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT
A - CHI TRƯỞNG
11. 1.1.1 - Cao Công húy Xuân Hạ, tự Lục Hà, hiệu Vạn Xuân.
Sinh năm:
Mậu Thân (1908).
Mất ngày:
10 - 5 năm Tân Mùi (1991), thọ 84 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai cụ Cao Duy Tân. Bình sinh
2 lần đi lính khố xanh. Lần đầu làm bếp cho Đoàn khảo sát Bản đồ của Pháp ở:
Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Đắk Lắk, Kon Tum, Gia Lai, Lào, Campuchia. Lần
sau làm lính canh tô giới của Pháp ở Thượng Hải, Trung Quốc 3 năm. Năm 1940 về
nước theo ông Vũ Đức Âu ở thôn Việt Dũng làm Cách mạng. Được bố trí ra làm Hội
trưởng Hội ái hữu tương thân đã đấu tranh thắng lợi với bọn hào lý địa phương
chia lại ruộng công điền cho toàn dân của xã. Năm 1944 được Cách mạng bố trí ra
làm Phó lý Tam thôn để hoạt động. Năm 1945 Khởi nghĩa tham gia đi lấy đồn Lạc
Quần, sau đó được cử làm Bí thư Việt minh xã. Năm 1946 làm Chủ tịch UBHC Kháng
chiến xã Hoành Nha đến cuối năm 1947 chuyển làm công tác vận chuyển muối lên
Khu 10 ở Tuyên Quang. Cuối năm 1949 đến năm 1951 cấp trên giao nhiệm vụ trở về
địa phương hoạt động gây dựng cơ sở vùng địch hậu. Thời gian địch tạm chiếm là
2 năm 4 tháng, gia đình là nơi nuôi dấu cán bộ hoạt động bí mật. Năm 1952 -
1953 tổ chức nhân dân ủng hộ lương thực, thực phẩm cho Sư đoàn 320 về giải
phóng Quê hương, mở Khu du kích và làm Trưởng ban Văn hóa xã. Năm 1954 - 1955
chung thuyền đi vận chuyển hàng cho nhà nước. Năm 1956 cải cách ruộng đất, bị
quy sai lên địa chủ phải đi tù. Năm 1957 sửa sai, được trả về, gia đình lại
đóng mới thuyền đi chở hàng hóa cho nhà nước. Năm 1960 vào HTX Thuyền buồm Nam
Định. Năm 1961 đi khai hoang ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh
Lào Cai (nay là phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Nhà đất quê cũ, thôn Cộng
Hòa, bán cho cháu là Cao Ngọc Cờn. Năm 1976 trở về quê cũ, được xã cấp đất ở mới
cạnh Bưu điện Hoành Nha, năm 1977 làm nhà. Nhà đất này năm 2015 các con cháu của
ông đã nhượng lại cho người khác, số tiền thu được dùng vào việc mua đất, làm
nhà thờ tiến cúng cho họ (theo văn bản tiến
cúng).
Được Nhà nước công nhận là cán bộ hoạt động
Cách mạng trước năm 1945 (Quyết định số: 772- QĐ/TƯ, ngày 19 - 7 - 1990, của Tỉnh
Ủy Hà - Nam - Ninh). Khen thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, được
hưởng phụ cấp hàng tháng và tiền hỗ trợ để làm nhà ở.
Năm 1977 - 1981 ông tổ chức quy tập mộ, xây
dựng bước đầu lăng mộ của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Bà Vũ Thị hàng Tam húy Cõn, hiệu Vạn Hương.
Sinh năm:
Đinh Mùi (1907).
Mất ngày:
16 - 2 năm Đinh Hợi (2007), thọ 101 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Lý Tỉnh họ Vũ, thôn Việt
Dũng. Đương thời làm ăn buôn bán nhỏ ở quê, khai hoang ở tỉnh Lao Cai, làm nông
nghiệp.
Năm 1995 bà tổ chức cùng phái họ xây dựng lăng
Cao Trần Bát đại tổ và năm 1997 xây dựng nhà thờ của phái.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.
Bốn con
trai:
- Trưởng là Cao Khắc Khoan.
- Thứ hai là Cao Đăng Rong.
- Thứ ba là Cao Quốc Hữu.
- Thư tư là Cao Quốc Sủng.
Con
gái:
- Cao Thị Nga, sinh năm 1937, mất ngày 17 - 10 - 1962.
Chồng là Phạm Văn Tuấn, thôn Cổ Rồng, xã Phương Công, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái
Bình. Sinh được 1 con trai.
11. 1.2.2 - Cao Đường húy Chi Di (Ry),
tự Dưỡng Hòa, hiệu Hoà Lạc Phủ Quân.
Sinh năm:
Đinh Mùi (1907).
Mất ngày:
28 - 12 năm Canh Thân (1980), thọ 73 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi
Tái. Đương thời năm 1930 - 1933 đi làm việc cho một số đồn điền ở Lào Cai và bị
bắt làm lính khố xanh cho Pháp, khoảng trên 1 năm sau trốn trại về quê. Ở địa
phương ông làm ăn sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Bà Lê Thị húy Ống, hiệu Cần Mẫn.
Sinh năm:
Đinh Mùi (1907).
Mất ngày:
2 - 12 năm Tân Sửu (1961), hưởng 55 tuổi.
Bà là con gái cụ Trưởng Mãn họ Lê, thôn Quyết
Tiến. Đương thời làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ. Mộ quy lăng cùng với ông.
Ông bà sinh được: 5 con trai và 3 con gái.
Năm con trai:
- Trưởng
là Cao Ngọc Cờn (Chi Kiền).
- Thứ hai là Cao Chi Thừng.
- Thứ ba là Cao Viết Sự, mất sớm
(7 tuổi).
- Thứ tư là Cao Xuân Thế.
- Thứ năm là Cao Văn Tộ, kế tự ông
Chi Phạng.
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Bơ, sinh năm
1932, mất ngày 3 - 2 - 2011, thọ 80 tuổi. Lấy ông Nguyễn Tiêu (liệt sỹ), sinh
được 1 con trai, sau bà lấy ông Doãn Miễn ở Hùng Tiến, sinh được 2 con trai, 3 con
gái.
-
Cao Thị Đỏ (Thị Đôi): mất sớm.
11. 1.2.3 -
Cao Công húy Chi Phạng,
tự Cung Cần, hiệu Cẩn
Xuất.
Sinh năm:
Nhâm Tý (1912).
Mất ngày:
26 - 6 năm Ất Dậu (1945), hưởng 34 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Chi Tái.
Sinh thời làm ăn sinh sống ở quê. Khi cụ Cao Chi Tái mất, được bác ruột là Cao
Duy Tân nhận làm con nuôi cho đi học chữ Hán và gây dựng gia đình 2 lần, nhưng
không mấy thành công. Ông bà nhận Cao Văn Tộ là con anh trai làm kế tự.
Bà ba Hoàng Thị húy Ngân.
Bà là con gái cụ Nho Luyến họ Hoàng, thôn Thống
Nhất. Ông mất, bà đi tái giá lấy người ở tỉnh Yên Bái.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Kế tự: - Cao Văn Tộ.
Con trai: - Cao Danh Ái (1941 - 1945).
Con gái: - Cao Thị Nhân (1944 - 1945).
11. 1.3.4 - Cao Công húy Văn Cẩm (Văn Sáng).
Sinh ngày: 9 - 9
năm Nhâm Tuất (1922).
Mất ngày: 6 - 6 năm Tân Mão (2011), thọ 90 tuổi.
Mộ an táng ở
nghĩa trang Pòm Máy Háu, thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Đức Bỉnh. Năm 1936 theo người làng lên làm ăn ở ga Phố
Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Đang lúc gặp khó khăn thì gặp được cụ Lý Chỉn
Siềng, người dân tộc Nhắng, nhận làm con nuôi và đưa về ở thôn Bản Vai, xã Bản
Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Năm 1946 trở về quê làm ăn sinh sống. Năm
1948 đi làm công nhân bốc vác ở cảng Hải Phòng. Năm 1960 lại trở về quê. Năm
1963 địa phương có phong trào đưa dân đi khai hoang ở miền núi, ông đưa gia
đình trở lại thôn Bản Vai, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai nơi trước
đây ông được cụ Lý Chỉn Siềng nhận làm con nuôi. Ông lại được mẹ nuôi cùng gia
đình giúp đỡ và định cư ở đây, sinh sống bằng nông nghiệp cho đến khi mất.
Bà Hoàng Thị húy Oanh.
Sinh năm:
Canh Ngọ (1930).
Mất ngày:
1 - 11 năm Nhâm Thìn (2012), thọ 83 tuổi.
Mộ ở nghĩa trang cùng với ông.
Bà là con gái cụ Trương Lự họ Hoàng, thôn Quy
Chính. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông bà
sinh được: 4 con trai và 4 con gái.
Bốn con trai:
- Trưởng là Cao Bàng Đức.
- Thứ hai là Cao Trọng Đạt.
- Thứ ba là Cao Kỳ Lân.
- Thứ tư là Cao Hoài Ngọc.
Bốn con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thu,
sinh năm 1953, mất năm 1973. Chồng là Lương Văn Mìn, thôn Bản Vai, xã Bản Qua,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai. Sinh được 1 con gái.
- Thứ
hai là Cao Thị Dung, sinh năm 1957. Chồng là Lý Văn Hồ, sinh được 3 con trai và
1 con gái. Gia đình làm ruộng ở thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai.
- Thứ ba là Cao Thị Thủy, sinh
năm 1963. Chồng là Lý Văn Sèn, con ông Lý Văn Kèn. Sinh được 2 con trai và 2
con gái. Gia đình làm ruộng
ở xã Sảng Ma Sáo, huyện Bát Xát,
tỉnh Lào Cai.
- Thứ tư là Cao Thị Hoa, sinh năm 1965.
Là giáo viên Trường Tiểu học, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng
là Nguyễn Văn Tảo, con ông Nguyễn Văn Tiêu, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Sinh
được 1 con trai, 1 con gái.
11. 1.3.5 - Cao Công húy Văn Tiên (Khắc Vũ).
Sinh năm: Bính Tý (1936).
Mất ngày: 23 - 7 năm Tân Hợi (1971), hưởng 36 tuổi.
Mộ an táng tại nghĩa trang xã Mương
Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Bỉnh,
lớn lên đi làm con nuôi cụ ông người họ Nguyễn và cụ bà Hoàng Thị Tượng người
công giáo ở Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình, đổi tên là Nguyễn Khắc Vũ. Năm 1954 ông theo
gia đình bố mẹ nuôi vào miền Nam ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình
Thuận. Gia đình làm ăn sinh sống bằng nông nghiệp.
Bà
Vũ Thị húy Huệ.
Sinh năm: Bính Tý (1936).
Mất ngày: 21 - 9 năm Nhâm Thìn (2012), thọ 77 tuổi.
Mộ an táng ở nghĩa trang cùng với ông.
Bà quê gốc ở xã Giáo Lạc, huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Định. Đương thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.
Hai con trai:
- Trưởng là Cao Văn Hùng.
- Thứ hai là Cao Khắc Việt.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Nga, sinh 1955, mất
ngày 27 - 11- 1977.
- Thứ hai là Cao Thị Mến sinh
năm 1960. Chồng là Đỗ Đình Thà. Gia đình ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh
Bình Thuận. Sinh được 3 con trai.
-
Thứ ba là Cao Thị Xuân Hương, sinh năm 1967. Chồng là Trần Văn Khẩn, sinh được
2 con trai. Gia đình sinh sống ở xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình
Thuận.
11. 1.4.6 - Cao
Công húy Văn Tri,
hiệu Lương Năng.
Sinh năm: Tân Hợi (1911).
Mất ngày: 17 - 9 năm Giáp Thìn (1964), hưởng 54 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trưởng cụ Cao Đức Biểu.
Đương thời trước năm 1945 đi làm công nhân mỏ than Vàng Danh, tỉnh Quảng Ninh.
Năm 1951 - 1954 làm công nhân ở cảng Hải Phòng. Sau đó về quê làm ruộng, có thời
gian làm Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp.
Bà Vũ Thị húy Tính, hiệu Diệu Tâm.
Sinh năm: Giáp Dần (1914).
Mất ngày:
5 - 9 năm Giáp Thân (2004), thọ 91 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông. Bà là con gái cụ Xã
Lam họ Vũ, thôn Việt Dũng. Đương thời
làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.
Con trai: -
Cao Văn Quy.
Ba con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Tâm (Ngọ),
sinh năm 1950. Năm 1968 vào Quân đội ở chiến trường B1. Năm 1978 học Trung cấp
Hoá ra làm ở Khoa Hoá nghiệm, BVQY 109, Quân khu 2, Thành phố Vĩnh Yên, cấp bậc
Đại úy. Chồng là Lê Kim Kỷ, làm ở BVQY 109. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Nga, sinh năm
1955. Năm 1976 - 2006 làm công nhân Nhà máy dệt Nam Định. Chồng là Trần Văn Thịnh.
Gia đình ở phường Năng Tĩnh, Thành phố Nam Định. Sinh được 1 con trai, 1 con
gái.
- Thứ ba là Cao Thị Nguyệt, sinh năm
1958. Chồng là Lê Văn
Thắng, con ông Lê Văn Đức, thôn
Việt Dũng. Làm ăn sinh sống ở quê. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.
11. 1.4.7 - Cao Công húy Văn Tởi,
tự Phúc Thiện, hiệu Minh Quang.
Sinh năm:
Giáp Dần (1914).
Mất ngày:
12 - 5 năm Quý Hợi (1983), thọ 70 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Biểu. Đương
thời trước năm 1945
đi làm ăn ở Lào
Cai một thời gian, sau về quê làm ruộng và tham gia một số công tác trong kháng
chiến chống Pháp. Từ năm 1955 đưa gia đình ra làm ăn, sinh sống bằng nông nghiệp
ở Xóm 27, xã Giao Thiện.
Bà
Nguyễn Thị húy Chút, tự Minh Tâm, hiệu Diệu Chắt.
Sinh năm:
Quý Hợi (1923).
Mất ngày:
12 - 5 năm Canh Dần (2010), thọ 88 tuổi.
Mộ quy lăng cùng ông. Bà là con gái cụ Nguyễn
Văn Tuần, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đương thời buôn bán nhỏ và làm nông nghiệp.
Ông
bà sinh được: 1 con trai, 6 con gái.
Con
trai: - Cao
Văn Tuấn, mất lúc 1 tuổi.
Sáu con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Dần, sinh năm
1952, mất lúc 2 tuổi.
- Thứ hai là Cao Thị Đông, sinh
năm 1955. Chồng là Vũ Văn Tình, con ông Vũ Văn Tịch, Hùng Tiến. Từ năm 1973 -
2010 làm kế toán HTXNN, sau tham gia công tác Chi hội Nông dân, Chi hội Phụ nữ,
Xóm 27. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia đình ở xã Giao Thiện.
- Thứ ba là Cao Thị Phương,
sinh năm 1958, mất lúc 3 tuổi.
- Thứ tư là Cao Thị Thiện,
sinh năm 1961, lấy ông Đinh Văn Đỗ, xã Giao An, sinh được 1 con trai. Ông Đỗ mất,
năm 1995 tái giá lấy ông Ngô Văn Quân, xã Giao Thiện, sinh được 2 con gái.
- Thứ năm Cao Thị Duyên, sinh
năm 1964, mất 19 - 1 - 2008. Chồng là Đinh Văn Năm, xã Giao An. Sinh được 2 con
trai, 2 con gái.
- Thứ sáu là Cao Thị Nguyên,
sinh năm 1966. Chồng là Trần Văn Đương, xã Giao Thiện. Sinh được 1 con trai và
2 con gái.
11.
1.4.8 - Cao
Công húy Lương Sách,
hiệu
Phúc Trường.
Sinh năm:
Canh Ngọ (1930).
Mất ngày:
16 - 7 năm Nhâm Thìn (2012), thọ
83 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức Biểu. Năm
1943 sống với chị gái ở thành phố Hải Phòng. Năm 1946 về quê với gia đình. Năm
1951 - 1954 đi làm công nhân ở cảng Hải Phòng, sau đó vê quê làm nông nghiệp. Từ
năm
1966 đưa gia đình ra định cư làm ăn, sinh sống ở đồng
muối xã Bạch Long,
huyện Giao Thủy.
Năm 1977 - 1981 ông tham gia tổ chức quy
tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ.
Bà Vũ Thị húy Roan, hiệu Thuận Hiền.
Sinh năm:
Bính Tý (1936).
Mất ngày:
5 - 12 năm Ất Sửu (1985), hưởng 50 tuổi.
Mộ quy lăng cùng ông. Bà là con gái cụ Vũ Văn
Nhự, thôn Việt Dũng. Đương thời làm nông nghiệp và làm muối.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.
Con trai: - Cao Văn Minh.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Liên, sinh năm
1964. Chồng là Lê Thường ở xã Giao Tiến. Sinh được 1 con trai và 3 con gái. Gia
đình định cư và kinh doanh muối ở xã Bạch Long.
- Thứ hai là Cao Thị Hòa, sinh năm
1970. Chồng là Phạm Văn Long, xã Giao Tiến. Sinh được 1 con trai và 3 con gái.
Gia đình định cư ở xã Bạch Long.
- Thứ ba là Cao Thị Hợp, sinh năm
1974. Chồng là Trần Xuân Bách, xã Giao Tiến. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.
Gia đình định cư ở xã Bạch Long.
B - CHI THỨ HAI
11. 2.1.9 - Cao Công húy Trung Ngữ.
Mất ngày: Mộ không rõ ở đâu.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Đảng. Ông bà chưa có con, ông mất sớm sau đó bà đi tái giá.
11. 2.1.10 - Cao Công húy Trung Điều.
Mất ngày:
5 - 2.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Đảng.
Bà Lê Thị húy Vân.
Ông mất, bà tái giá đi lấy chồng khác.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Cạc (Hợp). Chồng là
Tiêu Văn Kiên, thôn Quyết Thắng. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Nhuần. Chồng là Đỗ
Văn Ruy, thôn Quy Chính. Sinh được 3 con trai.
11. 2.2.11 - Cao Công húy Trung Tránh.
Mất năm:
Ất Dậu (1945).
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Hứa. Sinh
thời làm Xã tuần.
Bà Hoàng
Thị húy Soa.
Mất ngày: 7 - 8 năm Đinh Sửu (1997). Bình tro đặt tại
chùa Đinh Thành, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bà là con gái cụ Lý Biều họ Hoàng, thôn Cộng
Hòa. Năm 1954 bà đưa con trai vào làm
ăn, sinh sống ở thành phố Sài Gòn.
Ông bà sinh được 1 con trai: - Cao Trung Chính.
11.
2.2.12 - Cao công húy Trung Ngọ.
Sinh năm:
Canh Ngọ (1930).
Mất ngày:
24 - 11 năm Quý Mùi (2003) thọ 74 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ ba cụ Cao Trung Hứa. Năm 1947 khi mới 17 tuổi gia nhập bộ đội Vệ
quốc tại Lào Cai (khi đó đang ở với chị gái là Cao Thị Thái), tham gia Kháng
chiến đánh Pháp, đã từng chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ. Sau Hòa bình
được đi học Trường Bổ túc Công Nông ở Đông Triều (học văn hóa và chuyên môn y tế).
Sau về tiếp tục phục vụ trong quân đội với cấp hàm Thiếu úy. Năm 1966 chuyển
ngành về công tác ở Phòng Lương thực huyện Xuân Thủy (nay là huyện Giao Thủy).
Năm 1982 về nghỉ hưu ở quê, thôn Cộng Hòa. Được khen thưởng: Huân chương Kháng
chiến chống Pháp hạng Ba. Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Huân chương
Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba. Huy
hiệu Chiến sỹ Điện Biên Phủ. Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Năm 1977 - 1981 ông
tham gia tổ chức quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại
tổ. Năm 1992 ông hiến đất và tổ chức xây dựng nhà thờ của họ chi.
Bà Phạm Thị húy Nhài hiệu
Diệu Quế.
Sinh năm: Tân Mùi (1931).
Mất ngày: 16 - 7 năm Canh Dần (2010), thọ 80 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông. Bà là con
gái cụ Phạm Văn Thuận, thôn
Đoàn Kết. Đương thời làm nông
nghiệp và nội trợ gia đình
Ông bà sinh được: 4 con trai và 4 con gái.
Bốn con trai: - Trưởng là Cao Văn Trọng.
- Thứ
hai là Cao Văn Tôn.
- Thứ ba là Cao Văn Kính.
- Thứ tư là Cao Văn Tặng.
Bốn con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Quý,
sinh năm 1960. Chồng là Lê Văn Vinh, con ông Lê Văn Phóng xã Giao Châu. Sinh được
1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Số 10, Đặng Huy Liệu, P.Thống Nhất, Thành phố
Nam Định.
- Thứ hai là Cao Thị Hường,
sinh năm 1965, mất ngày 18 - 4 - 2000. Chồng là Ngô Văn Đằng, con ông Ngô Văn
Tiêm, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Sinh được 4 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Hương, sinh năm
1970. Chồng là Phạm Văn Vượng, con ông Phạm Văn Rợi, thôn Quy Chính. Sinh được
1 con trai và 2 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Hoa,
sinh năm 1971. Chồng là Cao Đình Tâm, con ông Cao Đình Tháp, xã Giao Phong.
Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở thành phố Vũng Tàu.
11. 2.4.13 - Cao Công húy Hưng Lợi, hiệu Phúc Lạc.
Sinh năm:
Giáp Tý (1924).
Mất ngày:
29 - 3 năm Giáp Thân (2004), thọ 81 tuổi.
Mộ quy lăng gia đình nghĩa trang ấp Phú Ninh,
xã Giao Thiện.
Ông là con trai cụ Cao Trung Thụy. Sinh thời cùng
gia đình sinh sống
ở phố Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang. Năm 1945 - 1946 tham gia
Tự vệ chống phỉ. Năm 1947 - 1948
tham gia Vệ quốc đoàn. Năm 1948 gia đình về ở xã Giao Tiến. Năm 1951 gia đình
ra sinh sống ở thành phố Hải Phòng. Tháng 9 năm 1956 đưa gia đình đi khai
hoang, lập nghiệp ở Xóm 27, xã Giao Thiện. Năm 1958 ông mua nhà đất ở xã Giao
Tiến để mẹ và 2 con trai ở đến năm 1964 bán lại cho ông Cao Trung Ngọ và chuyển
hết ra xã Giao Thiện. Năm 1959 - 1985 tham gia công tác HTX Nông nghiệp, xã
Giao Thiện. Được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba.
Năm 1977 - 1981 ông tham gia tổ chức quy tập mộ, bước đầu xây dựng khu lăng của phái ở nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm
1992 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ họ chi.
Bà Nguyễn
Thị húy Bướm, hiệu Từ Thục
Sinh năm: Giáp Tý (1924).
Mất ngày: 22 - 11 năm Ất Hợi (1995), thọ 72 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Cừ, thôn
Phú Mại, xã Tư Mại, huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đương
thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình
Ông bà sinh được: 3 con trai và 4 con gái.
Ba con trai: - Trưởng là Cao Văn Hùng.
- Thứ hai là Cao Bá Khoát.
- Thứ ba là Cao Quốc Đạt (mất sớm 1958).
Bốn
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Tường, sinh năm
1944. Chồng là Hoàng Phan Oanh, con ông Hoàng Văn Ngân, thôn Cộng Hòa. Sinh được
1 con trai, 7 con gái. Năm 1956 gia đình ra sinh sống ở Xóm 27, xã Giao Thiện.
- Thứ hai là Cao Thị Hảo (1947 - 20. 4
.1950).
- Thứ ba là Cao Thị Cửu, sinh ngày 31 - 1 - 1951. Giáo viên Trường Tiểu học, xã
Giao Thiện, nghỉ hưu năm 2005. Chồng là Vũ Văn Hưng, con ông Vũ Văn Ba, xã Giao
Thiện. Sinh được 1 con trai, 4 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Thanh Thủy, sinh
ngày 19 - 9 - 1961. Năm
1978 đi bộ đội ở Sơn Tây, sau
sang làm nhiệm vụ Quốc tế ở Lào. Năm 1981 về phục viên. Chồng là Trần Trọng Hợp,
con ông Trần Quang Tường, Xóm 13, xã Giao An. Sinh được 1 con trai và 2 con
gái.
Bà hai Nguyễn Thị húy Tâm, hiệu Diệu
Phúc.
Sinh năm:
Quý Dậu (1933).
Mất ngày: 25 - 7 năm Canh Dần (2010), thọ 78 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Tốn,
thôn Trực Thành, xã Trực Cát, huyện Trực Ninh. Đương thời làm nông nghiệp và nội
trợ gia đình
Ông bà sinh được: 2 con trai và 4 con gái.
Hai con
trai: - Thứ nhất là Cao Quốc Đạt.
- Thứ
hai là Cao Văn Sơn.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thập, sinh ngày
13 - 4 - 1956. Từ năm 1975 - 1990 là công nhân Công trường Cồn Lu, huyện Giao
Thủy. Năm 1991 lấy chồng và sinh sống ở đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sinh được 2
con trai và 2 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Thò (1959 -
1.1.1960).
- Thứ ba là Cao Thị Chung, sinh ngày 13
- 12 - 1961. Chồng là Trần Văn Đáng, con ông Trần Văn Mai, xóm Xuân Tiến, xã
Giao Xuân. Sinh được 2 con trai.
- Thứ tư là Cao Thị Chinh, sinh ngày
16 - 10 - 1965. Chồng là Hoàng Văn Hùng, con ông Hoàng Văn Vũ, Xóm 14, xã Giao
An. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.
11. 2.5.14 - Cao Công húy Văn Giới, hiệu Cẩn Thiện Phủ Quân Thần Vị.
Sinh năm: Tân Dậu (1921).
Mất ngày: 6 - 11 năm Giáp Dần (1974), hưởng 54 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế
Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai
trưởng cụ Cao Trung Đang. Đương thời làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp
ở quê.
Bà Trần Thị húy Phan.
Sinh năm: Nhâm Tuất (1922).
Mất ngày: 28 - 12 năm Ất Hợi
(1995), thọ 74 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Lý Tư họ Trần, xã
Nam Hà, huyện Tiền Hải, tỉnh
Thái Bình. Đương thời làm nông
nghiệp và nội trợ gia đình
Ông bà sinh được: 1 con trai và 4
con gái.
Con
trai - Cao Đức Triệu.
Bốn
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thu,
sinh năm 1948. Chồng là Lê Ngọc Bảo
thôn Quyết Tiến. Sinh được 3 con
trai và 2 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị The, sinh năm 1954. Chồng
là Hoàng Quốc
Việt, thôn Đoàn Kết. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Xuân, sinh
năm 1957. Chồng là Nguyễn Văn Đạo, Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái.
Sinh được 3 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Thủy, sinh
năm 1962. Chồng là Vũ Đức Thạnh, Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.
11. 2.5.15 - Cao Công húy Văn Tiu.
Sinh năm:
Đinh Mão (1927).
Mất ngày:
26 - 1 năm Giáp Tuất (1994), thọ 68 tuổi.
Mộ an táng tại
nghĩa trang ấp Long Hà, xã Điền Hải, Đông Hải.
Ông
là con trai thứ ba cụ Cao Trung Đang. Đương thời làm ăn, sinh sống ở quê. Năm
1956 ra khai hoang, lập nghiệp ở Xóm 27, xã Giao Thiện. Tháng 3 - 1978 lại đưa
gia đình vào lập nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc
Liêu, làm nông nghiệp.
Bà Trần Thị húy Ngắn.
Sinh năm:
Đinh Sửu (1937).
Mất ngày:
28 - 7 năm Giáp Tý (1984), hưởng 48 tuổi.
Mộ cùng nghĩa trang với ông.
Bà là con gái cụ Trần Văn Đạt, xã Hồng Thuận,
làm nông nghiệp.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 5 con gái.
Con
trai: - Cao Đông Thiện.
Bốn con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thanh, sinh năm 1958.
Chồng là Phan Ngọc Quý, con ông Phan Văn Tỵ, xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Hưng,
tỉnh
Nam Định. Sinh
được 3 con trai và 2 con gái.
- Thứ hai là Cao
Thị Hồng, sinh năm 1966. Chồng là Nguyễn
Văn Nam, con ông Nguyễn Văn
Doanh, xã Giao Yến. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh Hoà
- Thứ ba là Cao
Thị Thơm, sinh năm 1968. Chồng là Nguyễn Văn Toản, con ông Nguyễn Viết Chinh, tỉnh
Nghệ An. Sinh được 1 con trai
và 3 con gái.
Gia đình ở thị trấn Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
- Thứ tư là Cao
Thị Tho, mất sớm.
- Thứ năm là Cao
Thị Mơ, sinh năm 1977. Chồng là Tô Xuân Tiến, con ông Tô Xuân Hòa, xã Giao Hà.
Sinh được 1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông
Hải, tỉnh Bạc Liêu.
C - CHI THỨ BA
11. 3.1.16 - Cao Công húy Xuân Phiêu.
Sinh năm: Giáp Tuất (1934).
Mất ngày: 23 - 12 năm Kỷ Dậu (1969), hưởng 36 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Cựu
Trung, Xóm 5 Giao Tiến.
Ông là con trai cụ Cao Đức Vựng.
Sinh thời làm nông nghiệp, là Đội trưởng đội Thủy lợi, Trung đội phó Dân quân HTX
Quyết Thắng. Được tặng Bằng khen Thủ tướng Chính phủ vì sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước.
Bà Vũ Thị húy The.
Sinh năm: Quý Dậu (1933).
Bà là con gái cụ Vũ Đức Xuyến. Sinh thời làm
nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê. Từ năm 2008 vào Thành phố Vũng Tàu ở cùng với
gia đình con trai thứ hai là Cao Văn Hiền. Năm 2001, bà tổ chức xây dựng lăng mộ
của chi.
Ông
bà sinh được: 4 con trai và 2 con gái.
Bốn
con trai: - Trưởng
là Cao Trần Dưỡng (Trần Hồi).
- Thứ hai là Cao Văn Hiền.
- Thứ ba là Cao Song Hảo.
-
Thứ tư là Cao Văn Hải.
Hai
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Huệ (1957 - 1962).
- Thứ hai là Cao Thị Lụa, sinh năm 1960. Chồng
là Vũ Đức Chẩn con ông Vũ Đức Trung cùng thôn. Sinh được 3 con trai.
11. 3.2.17- Cao Công húy Văn An.
Sinh năm:
Giáp Tý (1924),
Mất ngày:
17 - 3 năm Quý Hợi (1983), thọ 60 tuổi.
Mộ an táng ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc, thành
phố Yên Bái.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Riễm. Năm
1945 ông cùng gia
đình chuyển lên sinh sống bằng
nông nghiệp ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc,
thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Bà Hồ Thị húy Tự.
Sinh năm: Giáp Tý (1924),
Mất ngày: 5 - 2 năm Ất Hợi (1995), thọ 72 tuổi.
Mộ ở cùng nơi với ông.
Bà quê ở làng Xuân Lan, xã Tuy Lộc, Thành phố Yên
Bái, làm nông nghiệp.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con
gái.
Con
trai: - Cao Văn Chung.
Bốn con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Bích, sinh năm
1949, lấy chồng ở xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Sinh được 3 con
gái.
- Thứ hai là Cao Thị Thái, sinh năm
1952, lấy chồng người cùng xã. Sinh được 3 con trai và 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Xuân, sinh năm
1955, lấy chồng người cùng xã. Sinh được 1 con trai và 3 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Thu, sinh năm
1957, lấy chồng ở huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sinh được 2 con trai và 1 con gái.
11. 3.2.18 - Cao Công húy Văn Lan.
Mất năm: Kỷ Dậu (1969).
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Riễm.
Ông bị bệnh tâm thần, không lập gia đình.
D - CHI THỨ TƯ
11. 4.1.19 - Cao Công húy Ngọc Xướng, hiệu Hiền Hoà Phủ Quân.
Sinh năm: Nhâm Dần (1902).
Mất ngày: 19 - 12 năm Kỷ Dậu (1969), thọ 68 tuổi.
Mộ
quy lăng của chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đức Lừng.
Sinh thời đi lính khố xanh
sang Pháp, Trung Quốc, làm chức
Cai đội. Ông giỏi nghề thợ mộc, đã đào
tạo cho con cháu và nhiều người
khác thành nghề.
Bà Lê Thị húy Nhôi, hiệu Diệu Tiến.
Sinh năm: Bính Ngọ (1906).
Mất ngày:
15 - 11 năm Quý Dậu (1993), thọ 88 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Lê Nhai, thôn Thống Nhất,
làm nông nghiệp.
Ông bà sinh được: 6 con trai và 3 con gái.
Sáu con
trai:
- Trưởng là Cao Trung Toản.
- Thứ hai là Cao Trung Tôn.
- Thứ ba là Cao Văn Toan, mất sớm.
- Thứ tư là Cao Hữu Nghị.
- Thứ năm là Cao Văn Phi, mất sớm.
- Thứ sáu là Cao Phạm Ái.
Ba
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Hinh, sinh năm Giáp Tuất (1934). Chồng
là Nguyễn Lữu con ông Nguyễn Thuỵ cùng thôn. Sinh được 2 con trai, 3 con gái
- Thứ hai là Cao Thị Hương, sinh năm
Bính Tý (1936). Chồng là Nguyễn Hải con ông Nguyễn Chính cùng thôn. Sinh được 1
con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Phú, sinh năm Kỷ Sửu
(1949), mất ngày 20- 9 - 1985. Chồng là Nguyễn Sính con ông Nguyễn Suý cùng
thôn.
11. 4.1.20 - Cao Công húy Văn Nghiêm, hiệu Hoà Nhã.
Sinh năm: Bính Ngọ (1906).
Mất ngày:
23 - 12 năm Nhâm Thìn (1952), hưởng 47 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm
12 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đức Lừng, làm
nông nghiệp.
Bà Mai Thị húy Nhàn.
Bà là người họ Mai ở thôn Quy
Chính, làm nông nghiệp.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái
Hai con
trai: - Trưởng là Cao Văn Phẩm, mất sớm.
- Thứ hai là Cao Văn Đỏ, mất sớm.
Con
gái: - Cao Thị Rún,
năm 1953 đi vào miền Nam và mất tích.
11. 4.1.21 - Cao Công húy Đức
Xương.
Sinh năm: Ất Mão (1915).
Mất ngày: 11 - 4 năm Canh Thìn (2000), thọ 86 tuổi.
Mộ an táng tại nghĩa trang Nhân
dân thành phố Thanh Hóa.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đức
Lừng. Thời trẻ ông đi làm ăn, sinh
sống ở Hải Phòng, Hà Nội. Năm
1941 vào Thanh Hóa làm công cho chủ mỏ Cromit Cổ Định. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cùng gia đình về làm ruộng
và buôn bán nhỏ ở phố Cầu Quan, xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa. Từ năm 1956 vào làm việc ở Ty Thương nghiệp tỉnh Thanh Hóa, được giao nhiệm
vụ phụ trách các cửa hàng ăn uống: Nông Cống, Triệu Sơn, Sầm Sơn và sân bay Sao
Vàng. Năm 1975 về nghỉ hưu.
Bà Mai
Thị húy Minh.
Sinh năm:
Bính Thìn (1916).
Mất ngày:
28 - 4 năm Giáp Thân (2004), thọ 89 tuổi.
Mộ an táng tại nghĩa trang nhân dân thành phố Thanh
Hóa.
Bà quê ở
làng Bình An, xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Năm 1941 - 1945 làm công cho chủ
mỏ Cromit Cổ Định, Thanh Hóa. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cùng gia đình về
làm ruộng và buôn bán nhỏ ở Cầu Quan, xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa. Bà tham gia các công tác xã hội: Ủy viên HĐND, ủy viên BCH Hội Nông
dân và BCH Hội Phụ nữ, xã Trung Chính.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.
Ba con
trai:
- Trưởng là Cao Anh Long.
- Thứ hai là Cao Đức Hải.
- Thứ ba là Cao Đức Dũng.
Ba con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thoa,
sinh năm 1937. Làm công nhân mỏ
Cromit Cổ Định, Thanh Hóa, mỏ thiếc Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang. Chồng là ông Bùi Văn Bê, quê ở tỉnh Tiền Giang (đã hy sinh).
Sinh được 2 con trai. Gia đình ở xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa.
- Thứ hai là Cao Thị Sơn, sinh
năm 1945. Năm 1966 - 1970 học
Trường Đại học Sư phạm Vinh, bằng Cử nhân Vật
lý. Năm 1971 - 1993 dạy học ở các nơi: Trường Thanh niên lao động XHCN Hòa
Bình; Trường cấp III Lương Sơn, Hòa Bình; Trường THPT Nông Cống, Thanh Hóa. Được
thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huy chương vì sự nghiệp Giáo
dục Đào tạo. Chồng là ông Trần Quang
Hanh, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh được 1 con trai và 3 con
gái. Gia đình ở xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
- Thứ ba là Cao Thị Ngọc
Bích, sinh năm 1958. Năm 1976 -
1979 học ở Trường Cao đẳng Sư phạm
Nhạc họa Trung ương. Làm giáo viên dạy nhạc Trường Trung học Điện Biên II, thành
phố Thanh Hóa, lấy ông Vũ Đình Khiêm. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở đường Triệu
Quốc Đạt, thành phố Thanh Hóa.
11. 4.2.22 - Cao Công húy Văn Bò.
Mất ngày: , hưởng
17 tuổi.
Mộ quy lăng của chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm
12 Giao Tiến.
Ông là con trai cụ Cao Đức Lẫy, mất
sớm chưa lập gia đình.
Đ - CHI THỨ NĂM
11. 5.1.23 - Cao Công húy Đinh Ruy, hiệu Từ Mẫn.
Sinh năm:
Quý Sửu (1913).
Mất ngày:
27 - 12 năm Kỷ Mão (1999), thọ 87 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Bách Linh,
Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Đinh Xuân Đễ, xã
An Cư, huyện Xuân Trường. Năm 1938 - 1940 ông cùng bố xuống xã Hoành Nha tham
gia trong tốp thợ xây miếu thôn Thượng, khi đó cụ Cao Duy Tân trong Ban Kiến
thiết do có mối quan hệ tốt nên đã nhận đỡ đầu và đưa ông Đinh Ruy vào họ Cao để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cư và làm ăn sinh sống ở xã Hoành Nha. Hậu
duệ của ông đến nay đã đến đời thứ 4 làm ăn phát triển ổn định trên đất Hoành
Nha nay là xã Giao Tiến và tham gia đóng góp các công việc của họ cho tới ngày nay.
Sinh thời ông làm thợ xây vào loại giỏi nổi tiếng ở xã Hoành Nha (sau là xã Giao
Tiến), đã đào tạo được các con và nhiều người khác thành nghề. Năm 1997 ông
đóng góp tư vấn về chuyên môn xây dựng nhà thờ phái tổ Cao Đức Thiệm.
Bà Phạm Thị húy Goay, hiệu Diệu
Thuận.
Sinh năm:
Mậu Ngọ (1918).
Mất ngày:
28 - 5 năm Nhâm Ngọ (2002), thọ 85 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Phạm Văn Xuân, xã Giao Tiến.
Sinh thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông
bà sinh được: 3 con trai và 1 con gái.
Ba con
trai:
- Trưởng là Cao
Quang Bình.
-
Thứ hai là Cao Đình Ban.
- Thứ ba là Cao Ngọc Phong.
Con gái:
- Cao Thị Minh, sinh năm 1958, mất năm
2004. Chồng là Hoàng Trung Thực, con ông Hoàng Văn Huỳnh, Hùng Tiến. Sinh được
2 con trai và 1 con gái.
ĐỜI THỨ MƯỜI HAI
A - CHI TRƯỞNG
12. 1.1.1 - Cao Công húy Khắc Khoan, hiệu Nhân Hòa.
Sinh năm:
Mậu Thìn (1928), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày:
8 - 6 năm Ất Sửu (1985), hưởng 58 tuổi.
Mộ ở lăng gia đình nghĩa trang Công viên
Vĩnh hằng Ba Vì, Hà Nội.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Xuân Hạ.
Sinh thời, trước năm 1954 làm ruộng và tham gia làm ăn buôn bán với bố mẹ. Sau
Hòa bình lập lại năm 1954 bố mẹ có chung với 2 gia đình khác 1 con thuyền gỗ trọng
tải khoảng 20 tấn và sau đó năm 1957 đóng riêng 1 con thuyền khác trọng tải khoảng
25 tấn thì chuyển sang chuyên làm thuyền. Từ phụ lái sau làm lái chính và quản
lý toàn bộ con thuyền. Chuyên chở thóc, gạo, muối và các hàng hóa khác cho nhà
nước, hoạt động ở vùng Nam Định và các tỉnh khác ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Năm
1960 vào HTX Thuyền buồm Nam Định, mấy năm sau làm ăn kém hiệu quả, thôi không
làm nữa. Năm 1966 ông đưa gia đình đi khai hoang ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường,
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (nay là phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Làm
nông nghiệp: trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi.
Bà Lê Thị húy Nguyên, hiệu Từ Thuận.
Sinh năm:
Kỷ Tỵ (1929), xã Hoành Tam.
Mất ngày:
29 - 9 năm Quý Mùi (2003), thọ 75 tuổi.
Mộ an táng tại nghĩa trang cùng với ông
Bà là con gái cụ Bá Soạn họ Lê, xã Hoành Tam,
nay là xã Hoành Sơn. Sinh thời làm nông nghiệp và nội trợ gia đình. Sau khi ông
mất, năm 1998 bà bán nhà ở Xuân Tăng, mua nhà ở phường Bắc Lệnh, thành phố Lào
Cai để gần con cháu và mất ở đấy.
Ông bà sinh được: 5 con trai và 4 con gái.
Năm con
trai:
- Trưởng là Cao Trọng Hiền.
- Thứ hai là Cao Văn Tham.
- Thứ ba là Cao Quốc Hóa.
- Thứ tư là Cao Văn Viên.
- Thứ năm là Cao Quốc Trinh.
Bốn con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Hằng, sinh năm 1952, Mất
ngày 16 - 8 - 2013. Chồng là Triệu Quốc Việt, quê tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố
Hà Nội). Sinh được 3 con trai và 2 con gái. Gia đình ở thôn Làng Múc, xã Thái
Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Thứ hai là Cao Thị Tố, sinh năm
1955. Chồng là Vũ Duy Thanh con ông Vũ Quốc Bảo, thôn Việt Dũng. Sinh được 2
con trai. Gia đình ở xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Thứ ba là Cao Thị Thanh, sinh năm 1962. Là Cử
nhân Kinh tế, làm kế toán ở Công ty APATIT, tỉnh Lào Cai, năm 2018 nghỉ hưu. Chồng
là Nguyễn Đỗ Hải, thành phố Hà Nội. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở phường Pom
Hán, thành phố Lào Cai.
- Thứ tư là Cao Thị Hồng, sinh năm 1970. Cử
nhân Sư phạm, Hiệu trưởng Trường THCS Lý Tự Trọng, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào
Cai. Chồng là Lê Quang Minh, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai. Sinh được 2
con trai. Gia đình ở phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.
12.
1.1.2 - Ông Cao Đăng Rong.
Sinh ngày:
1 - 2 - 1935 (25 - 12 - Giáp Tuất), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Xuân Hạ. Năm
1952 học lớp 6 Trường cấp II Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 1953 học tiếp cấp II
Trường Tống Duy Tân, Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đầu năm 1954 vào Thanh Hóa học
tiếp đi bằng đường biển và bị địch bắt đưa ra giam ở Hải Phòng hơn 2 tháng sau
trốn ra được. Năm 1955 - 1958 học Trường cấp III Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Từ năm
1959 đi làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên, là công nhân Trắc địa. Năm
1974 tốt nghiệp Đại học Xây dựng, là Kỹ sư Xây dựng làm việc ở Phòng Thiết kế
Công ty. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên. Năm 1984 vào thành phố
Vũng Tàu làm Phó Giám đốc Xí nghiệp Kết cấu thép thuộc Liên hiệp Xây lắp Dầu
khí, Tổng cục Dầu khí. Năm 1995 về nghỉ hưu. Được Nhà nước thưởng Huân chương
Kháng chiến chống Mỹ hạng Hai. Gia đình ở SN 188, Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng
Nhất, thành phố Vũng Tàu.
Bà Trần Thị Phụng.
Sinh năm: Bính Tý (1936), xã Xuân Trung.
Mất ngày: 21 tháng 10 năm Quý Mão (03 - 12 - 2023). Hưởng thọ 88 tuổi.
Phần mộ tại nghĩa trang Long Hương thành phố Bà Rịa tỉnh BR-VT.
Bà là con gái cụ Tư Lý họ Trần, xã
Xuân Trung, huyện Xuân Trường.
Năm 1953 đi dân công phục vụ chiến
dịch Hoà Bình 6 tháng. Năm 1954 -
1964 làm thuyền cho gia đình và buôn
bán nhỏ. Năm 1964 - 1984 làm việc tại Xưởng Đường Sắt (sau là XN Vận chuyển Đường
sắt) và Xưởng Cơ khí (sau là Nhà máy Cơ khí) thuộc Công ty Gang Thép Thái
Nguyên. Năm 1984 - 1993 chuyển vào làm việc tại Xí nghiệp Kết cấu thép thuộc
Liên hiệp Xây lắp Dầu khí tại thành phố Vũng Tàu. Được Nhà nước thưởng Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.
Ba con
trai: - Trưởng là Cao Đăng Rung.
- Thứ hai là Cao Đăng Phong (Đại Tống).
- Thứ ba là Cao Kinh Thao.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Nguyệt, sinh năm
1959. Chồng là Mai Văn Lâm, làng Chuông, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1
con trai và 1 con gái. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên.
- Thứ hai là Cao Thị Hà, sinh năm
1969. Làm việc ở Nhà Văn hóa của Liên doanh Dầu khí VIETSOPETRO. Chồng là Ngô Tuấn Anh quê tỉnh Thái Bình. Sinh
được 1 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu.
- Thứ ba là Cao Thị Thành, sinh năm
1971. Học Trường ĐH Ngoại ngữ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp Cử nhân tiếng
Nga, làm việc tại Công ty Khí, Thành phố Vũng Tàu. Chồng là Trần Ngọc Tôn, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định. Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu.
12. 1.1.3 - Ông Cao Quốc Hữu.
Sinh ngày:
12 - 8 - 1941 (Tân Tỵ), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Xuân Hạ. Năm 1958 tốt nghiệp
Trường cấp II Diên Hồng, thành phố Nam Định. Từ năm 1960 - 1962 học Trung cấp
Thủy lợi ở Hà Nội. Năm 1962 về công tác ở Ty Thủy lợi tỉnh Hà Bắc. Năm 1963
chuyển về công tác tại Ty Thủy lợi tỉnh Yên Bái. Năm 1971 - 1975 học Trường Đại
học Thủy lợi Hà Nội. Tốt nghiệp Kỹ sư Thủy lợi, về công tác ở Sở Thủy lợi tỉnh
Hoàng Liên Sơn. Khi tách tỉnh công tác ở Sở Thủy lợi tỉnh Yên Bái (nay là Sở
NN&PTNN). Từ năm 1980 - 2002 là Phó Giám đốc Xí nghiệp KSTK Thuỷ lợi, Thuỷ
điện; Phó Giám đốc Công ty XL Thuỷ lợi, Thuỷ điện; Phó Trưởng Chi cục Thuỷ lợi
tỉnh Yên Bái. Năm 2002 về nghỉ hưu, năm 2002 - 2017 cùng bạn bè mở Công ty
TNHH, là Giám đốc CTCP Tư vấn Thiết kế TL&PTNT Yên Bái. Được thưởng: Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, Huy chương vì sự nghiệp Nông nghiệp Việt
Nam, Huy chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn, Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng.
Gia đình ở SN 1027, đường Yên Ninh, phường Minh Tân, Thành phố Yên Bái. Năm
2015 - 2016 ông thiết kế, chỉ đạo thi
công xây dựng Hoạt Tế Đường và tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Bà Mai Thị Dung.
Sinh năm:
Nhâm Ngọ (1942), thôn Quy Chính.
Bà là con gái cụ Mai Văn Khoa, thôn Quy Chính.
Năm 1967 - 1993, làm việc ở Công ty Vật tư Nông nghiệp tỉnh Yên Bái.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.
Hai
con trai: - Trưởng là Cao Bình Định.
- Thứ hai là Cao Bình Cung.
Con
gái:
- Cao Mai Phương, sinh ngày 22
- 10 - 1975. Cử nhân Tài chính, từ năm 2002 đến nay làm việc ở Cục thuế tỉnh
Yên Bái. Chồng là Nguyễn Thanh Phương, thành phố Yên Bái.
Sinh được 1 con trai và 1 con gái. Gia đình ở đường Quang Trung, thành phố Yên
Bái.
12. 1.1.4 - Ông Cao Quốc Sủng.
Sinh ngày:
10 - 4 - 1947 (Đinh Hợi), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày: 24 ttháng 11 năm Quý Mão (2023), hưởng thọ 77 tuổi.
Mộ tại nghĩa trang Bách Linh xã Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ tư cụ Cao Xuân Hạ. Năm 1962 tốt nghiệp Trường
cấp II xã Giao Hoan (nay là xã Giao Thịnh). Năm 1962 - 1965 đi khai hoang cùng
gia đình ở thôn Xuân Tăng, xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai (nay là
phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai). Năm 1965 - 1968 học Trường Trung cấp Cơ
khí - Luyện kim, Bắc Thái. Năm 1968 làm việc ở Công ty Gang Thép Thái Nguyên.
Năm 1968 - 1969 tham gia Quân đội, sau đó xuất ngũ trở về làm việc ở Công ty
Gang Thép Thái Nguyên đến khi nghỉ hưu. Năm 1979 tốt nghiệp Kỹ sư Luyện kim.
Năm 1981 - 1983 học tại Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. Năm 1984
làm Phó Giám đốc, năm 1990 làm Giám đốc, năm 1993 kiêm Bí thư Đảng ủy Nhà máy
Cán thép Lưu Xá, Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Gia đình ở phường Trung Thành, Thành
phố Thái Nguyên. Năm 2005 về nghỉ hưu, năm 2006 cùng gia đình chuyển về Thành
phố Hà Nội, ở căn hộ 714, nhà CT5, phố Trần Văn Lai, đường Phạm Hùng, phường Mỹ
Đình 1, quận Nam Từ Liêm.
Được thưởng: Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng
Nhất; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Chiến sỹ Thi đua ngành Công nghiệp; Huy
chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn; Bằng Lao động Sáng tạo của Tổng Liên đoàn
LĐVN; Huy chương Bảo vệ ANTQ; Huy chương vì sự phát triển Công nghiệp Việt Nam;
Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Vũ trang Quần chúng; Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng.
Năm 2015 - 2016 làm Trưởng ban Ban kiến
thiết Hoạt Tế Lăng, chịu trách nhiệm chính phần thiết kế và tổ chức
thi công; tham gia chỉ đạo thi công xây dựng Hoạt Tế Đường. Ông là Biên soạn
chính cuốn Gia phả và Phú ý họ Cao Trần, Giao Tiến năm 2018. Tổ chức và là biên
soạn chính cuốn Gia phả Phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.
Bà Tạ Thị Khánh.
Sinh ngày:
6 - 4 - 1953 (Quý Tỵ), thôn Đông Hạ.
Bà là con gái cụ Tạ Văn Tuệ, thôn Đông Hạ, xã
Hùng Cường, thành
phố Hưng Yên (trước thuộc huyện
Kim Động), tỉnh Hưng Yên. Năm 1971 - 1984 làm việc ở Công ty Gang Thép Thái
Nguyên, Công ty Lâm sản Đông Bắc. Năm 1984 - 2003 làm việc ở Nhà máy Cán thép
Lưu xá, Công ty Gang Thép Thái Nguyên. Được thưởng Huy chương vì sự phát triển
CNVN.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Quang Khải (Kinh
Vũ).
Con gái:
- Cao Thị Thanh Huyền, sinh ngày 20 - 8 -
1973. Cử nhân Kế toán Trường Đại học Thương mại, Thạc sỹ QTKD Trường Đại học
Giao thông Vận tải Hà Nội. Làm việc ở: Nhà máy Cán thép Lưu xá, Chi nhánh Thép
Hà Nội (cả hai thuộc Công ty Gang Thép Thái Nguyên), Công ty NEWTATCO của Quân
đội. Chồng là Lê Hùng Chiến, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con trai và
1 con gái. Gia đình ở SN 8, Ngõ 22, phố Đỗ Quang, phường Trung Hoà, quận Cầu Giấy,
Thành phố Hà Nội.
12. 1.2.5 - Cao Công húy Ngọc Cờn, tự Năng Động, hiệu Phúc Kình.
Sinh năm:
Mậu Thìn (1928), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày:
8 - 4 năm Canh Dần (2010), thọ 83 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi
Ry, còn có tên là Chi Kiền. Năm
1945 - 1950 tham
gia hoạt động một số phong trào của địa phương. Năm 1950 - 1954 ra cảng Hải
Phòng làm ăn. Năm 1954 về quê làm ruộng, tham gia Hợp tác xã Nông nghiệp. Sau
đó tham gia Ban Quản trị và Ban Kiểm soát của Hợp tác xã Chiếu cói Tiến Thắng.
Năm 1989 nghỉ về làm kinh tế gia đình, làm ruộng và bột dong, bột sắn.
Năm 1977 - 1981 tham gia cùng các cụ, các
ông quy tập mộ, xây dựng bước đầu lăng của phái ở nghĩa trang Bách
Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Năm 1995 tham
gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại tổ. Năm 1997 ông hiến đất
và tham gia chỉ đạo kiến thiết nhà thờ của phái.
Bà
Hoàng Thị húy Mơ, tự Hiếu Hạnh, hiệu Diệu Mai.
Sinh
năm: Mậu Thìn (1928), thôn Cộng
Hoà.
Mất
ngày: 24 - 5 năm Giáp thân (2004), thọ
77 tuổi.
Mộ
quy lăng cùng với ông.
Bà là con gái cụ Hoàng Văn Ngân, thôn
Cộng hòa. Đương thời làm nông nghiệp và buôn,
bán nhỏ.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 6 con gái.
Hai con trai: -
Trưởng là Cao Xuân Thiện (Xuân Kiệm).
- Thứ
hai là Cao Xuân Khảm (1970 - 1971).
Sáu con
gái:
- Thứ nhất là
Cao Thị Rằm, sinh năm 1951, mất ngày 9 - 10 - 1976. Chồng là Phạm Trọng
Trử, xã Hoành Tứ. Sinh được 1 con trai.
- Thứ hai là Cao
Thị Răm (1954 - 24. 3.1960).
- Thứ ba là Cao
Thị Liên, sinh ngày 19 - 7- 1960. Chồng là Hoàng Thanh Hiện,
thôn Cộng Hòa. Sinh được 1 con gái và 1 con trai.
- Thứ tư là Cao
Thị Huyền, sinh ngày 26 - 4 - 1963. Chồng là Vũ Văn Hồng,
thôn Quy Chính. Sinh được 3 con trai.
- Thứ năm là Cao
Thị Ngoan (1966, mất 5 tháng tuổi).
- Thứ sáu là Cao Thị Vân, sinh ngày 3 - 4 - 1968. Chồng là Lưu Công Luân, xã Giao Yến. Sinh được 2 con gái và 1 con trai.
12. 1.2.6 - Cao Công huý Chi Thừng, tự Chính Trực, hiệu Phúc Thuận Phủ Quân.
Sinh ngày:
15 - 6 - 1936 (Bính Tý), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày:
10 - 2 - 2022 (Nhâm Dần), thọ 87 tuổi.
Mộ an táng tại nghĩa trang nhân dân xã Giao Lạc.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Chi Ry. Năm 1949 tham gia làm liên lạc
cho du kích, có lần bị giặc ở bắt giam Bùi Chu, huyện Xuân Trường. Năm 1951 -
1954 ra cảng Hải Phòng làm ăn sau năm 1954 về làm ruộng, vào Hợp tác xã Nông
nghiệp và học thêm nghề thợ xây ở quê. Năm 1965 ra xã Giao Lạc làm nghề xây dựng
sau đó định cư ở Xóm 2, xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tham gia dân quân xã. Hội
viên Hội CCB Việt Nam.
Bà Phạm
Thị Tám.
Sinh năm:
Mậu Dần (1938).
Bà là con gái cụ Phạm Ngọc Nhu, xã Giao Lạc.
Làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông
bà sinh được: 4 con trai và 1 con gái.
Bốn
con trai: - Trưởng là Cao
Văn Chiến.
- Thứ hai là Cao Văn Thắng.
- Thứ ba là Cao Văn Điện.
- Thứ tư là Cao Văn Biên.
Con gái:
- Cao Thị Nhung, sinh ngày 16 -
7- 1973. Chồng là Nguyễn Ngọc Bình, xã Giao
Thanh. Sinh được 1 con trai và 1 con gái.
12. 1.2.7 - Ông Cao Xuân Thế.
Sinh ngày:
3 - 3 - 1944 (Giáp Thân), thôn Cộng Hoà.
Ông
là con trai thứ tư cụ Cao Chi Ry. Năm 1963 - 1989 làm việc ở
Ty Giao thông Vận tải, tỉnh Lào Cai, là công nhân, cán bộ cung ứng vật tư, Đội
trưởng Công trường. Năm 1971 - 1979 gia đình ở Lào Cai. Năm 1979 Trung Quốc
đánh Lào Cai gia đình đến ở thị xã Nghĩa Lộ. Năm 1983 chuyển ra thị xã Yên Bái.
Năm 1989 về nghỉ hưu ở thị xã Yên Bái. Năm 1991 cả gia đình đến định cư ở xã
Xuân Giao, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Sau khi nghỉ hưu vẫn tham gia cấp ủy
và một số công tác khác ở địa phương. Năm 2009 gia đình lại chuyển lên ở phố
Hoàng Quy, phường Bắc Cường, Thành phố Lào Cai. Năm 2018 về ở quận Hà Đông, Hà
Nội cùng gia đình con trai. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ
hạng Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp GTVT; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Bà Đỗ Thị húy Đãng.
Sinh
năm: Đinh Hợi (1947).
Mất
ngày: 22 - 8 năm Đinh Dậu (2017), thọ
71 tuổi.
Mộ an
táng ở nghĩa trang phường Thống Nhất, thành phố Lào Cai.
Bà là
con gái cụ Đỗ Văn Lợi, xã Hợp Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam.
Từ năm 1967 -
1987 làm việc ở ngành Dược phẩm tỉnh Lào Cai. Được khen thưởng: Huy chương
Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Y dược.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 3
con gái.
Con trai: - Cao Anh Hào.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thúy Hoàn,
sinh ngày 16 - 9 - 1973. Học Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên. Bác sỹ đa khoa,
làm việc tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Lào Cai. Chồng là Trịnh Văn Mười, thành
phố Lào Cai. Sinh được 2 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Minh Hảo, sinh
ngày 29 - 3 - 1975. Giáo viên THCS, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Chồng là Đỗ
Trung Lượng, xã Giao Thịnh. Sinh được 2 con gái, 1 con trai. Gia đình ở huyện Bảo
Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Thứ ba là Cao Thị Thúy Hiền, sinh
ngày 30 - 7 - 1977, mất ngày 8 - 6 -
2004, là giáo viên THCS. Chồng là Vũ Đức Long, thôn Việt Dũng. Sinh được 1 con
trai.
12. 1.2.8 - Ông Cao Văn Tộ.
Sinh năm:
Đinh Hợi (1947), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ năm cụ Cao Chi Ry, làm kế
tự chú ruột là Cao Chi Phạng. Ông làm nông nghiệp ở quê nhà.
Bà Phạm Thị Nở.
Sinh năm: Kỷ Sửu (1949).
Bà là con gái cụ Phạm Tân, thôn Quyết
Thắng, làm nông nghiệp và
nội trợ gia
đình.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.
Hai
con trai:
- Trưởng là Cao Ngọc Chinh.
- Thứ hai là Cao Văn Nhàn.
Con
gái: - Cao Thị Hơn, sinh ngày 6 -
11 - 1972.
12. 1.3.9 - Ông Cao Bàng Đức.
Sinh ngày:
31- 12 - 1955 (Ất Mùi), phường
Cát Dài, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Cẩm. Năm
1974 - 1978 học Trường Sư phạm dạy nghề Hưng Yên. Từ năm 1978 - 2015 làm việc
cho Công ty APATIT Lào Cai, trong đó: Năm 1978 - 1994 làm việc ở Trường Trung cấp
nghề, năm 1994 đến 2015 làm việc ở Nhà máy Tuyển Tằng Loỏng. Năm 1991 tốt nghiệp
Trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên. Kỹ sư Cơ khí Động lực, UVBCH Đảng ủy,
Phó Chủ tịch Công đoàn Nhà máy Tuyển Tằng Loỏng, kiêm Quản đốc Phân xưởng Cơ
khí - Vận tải.
Được thưởng Huy chương vì sự nghiệp Công nghiệp
Việt Nam. Nghỉ hưu năm 2015. Gia đình ở
Tổ 4, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.
Bà Trần Thị Oanh.
Sinh ngày:
12 - 9 - 1956 (Bính Thân).
Bà là con gái cụ Trần Đình Ong, xã Hà Lộc, thị
xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1973 làm việc ở Ngân hàng thị xã Cam Đường, tỉnh
Lào Cai (nay là phường Bắc Lệnh, Thành phố Lào Cai). Năm 1993 nghỉ hưu.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con
gái.
Con trai: - Cao Hải Long
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Hồng Loan, sinh
ngày 12 - 11- 1978. Học Trung cấp Mầm non. Từ năm 2011 - 2016 làm việc tại Trường
Mầm non thị trấn Bát Xát, Trường Mầm non phường Pom Hán, thành phố Lào Cai. Chồng
là Nguyễn Quang Hùng, thôn Đồng Đại, xã Đồng Thanh, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở Tổ 4, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.
- Thứ hai là Cao Thị Diệu Linh, sinh
ngày 25 - 11- 1982. Là Cử nhân Tài chính Ngân hàng. Năm 2018 tốt nghiệp Cao học
Học viện Ngân hàng. Từ năm 2005 đến nay làm việc ở Ngân hàng Nông nghiệp, huyện
Bát Xát, Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Cam Đường thành phố Lào Cai. Chồng là
Nguyễn Thanh Tùng, con ông Nguyễn Văn Lân, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.
Sinh được 1 con trai. Gia đình ở Tổ 5, phường Bắc Lệnh, thành phố Lào Cai.
12. 1.3.10 - Ông Cao Trọng Đạt.
Sinh năm: Tân Sửu (1961), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Cẩm.
Gia đình làm nông nghiệp, thôn Lá Luộc, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai, nay là Tổ 1, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Bà Phạm
Thị Nguyệt.
Sinh
năm: Nhâm Dần (1962).
Bà là
con gái cụ Phạm Văn Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 3 con
gái.
Con trai: - Cao Văn Thành.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thúy, sinh ngày
29 - 3 - 1983, là giáo viên. Chồng là Trần Hữu Hưng, con ông Trần Hữu Hà, thị
xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Sinh được 2 con gái. Gia đình ở Tổ 1, thị trấn Bát
Xát, Lào Cai.
- Thứ hai là Cao Thị Thuyết, sinh ngày
29 - 9 - 1990. Học Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai, làm việc ở Trường Mầm non
xã Quang Kim, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Bùi Đức Dũng, con bà Nguyễn
Thị Cúc, quê ở xã Giao Hà, huyện Giao Thuỷ. Sinh được 1 con gái. Gia đình ở Tổ
2, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Thứ ba là Cao Thị Hà, sinh ngày 5 - 4 -
1993, là giáo viên ở
Trường Mầm non Số
1, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Nguyễn Văn Lợi, con
ông Nguyễn Văn Lăng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sinh
được 1 con trai. Gia đình ở Tổ 1, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
12. 1.3.11 - Ông Cao Kỳ Lân.
Sinh ngày:
12 - 1- 1968 (Đinh Mùi, 1967), xã Bản Qua, Bát Xát.
Ông là
con trai thứ ba cụ Cao Văn Cẩm. Gia đình làm nông nghiệp, thôn Tân Bảo, xã Bản
Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Bà Lý Thị
Liên.
Sinh
tháng 1- 1969 (Mậu Thân, 1968).
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con
gái.
Con trai: - Cao
Văn Hưng.
Con gái:
- Cao Thị Hằng, sinh ngày 3 - 7-
1989. Học Trường Cao đẳng Kinh tế Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làm việc ở tỉnh Bắc Ninh. Chồng là Hoàng Văn Ánh, con ông
Hoàng Văn Tuấn ở Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
12. 1.3.12 - Ông Cao Hoài Ngọc.
Sinh
ngày: 22 - 5 - 1971 (Tân Hợi), xã Bản
Qua, Bát Xát.
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Văn Cẩm.
Gia đình làm nông nghiệp, thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai.
Bà Hoàng
Thị Ngò.
Sinh
năm: Kỷ Dậu (1969).
Bà là
con gái cụ Hoàng A Hòa, xã Bản Qua, Bát Xát, Lào Cai.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con
gái.
Con trai: -
Cao Quang Trung.
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Hạnh, sinh ngày 22 - 10 - 1990. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Lào Cai. Hiện đang cư trú ở thôn Tân Bảo, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Chồng là Nguyễn Đức Trung, con ông Nguyễn Đức Dũng ở xã Thanh Sơn, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Sinh được 1 con trai. - Thứ hai là Cao Thị Phúc, sinh ngày 17- 5 - 1993. Tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Thái Nguyên, làm việc ở Trung tâm Ngoại ngữ Lào Cai.
12. 1.3.13
- Ông Cao Văn Hùng.
Sinh
năm: Nhâm Dần (1962).
Ông là
con trai trưởng cụ Cao Văn Tiên, đã đổi sang họ Nguyễn. Hiện nay ông cùng gia
đình đang định cư ở bang Tếchdát, Mỹ.
Bà ...
Thị Tuyết
Ông bà sinh được 1 con gái: - Cao Thị Trinh
12. 1.3.14 - Ông Cao Khắc Việt.
Sinh
năm: Canh Tuất (1970).
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Văn Tiên, đã đổi sang họ Nguyễn. Gia
đình làm ăn,
sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, xã Mương Mán, huyện
Hàm Thuận Nam, tỉnh
Bình Thuận.
Bà Trần
Hải Yến.
Sinh
năm: Giáp Dần (1974).
Bà
quê gốc ở tỉnh Hà Tĩnh. Làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông bà sinh đươc 1 con trai, 1 con gái.
Con
trai: - Cao Duy.
Con gái:
- Cao Thục Duyên, sinh ngày 1 - 1 -
1998. Học Trường CĐ Điện lực, Thành phố HCM. Chồng là Đào Vũ Nguyên Khôi, con
ông Đào Sỹ Hưởng ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hiện gia đình ở tỉnh Bình Thuận.
12. 1.4.15 - Cao Công húy Văn Quy, hiệu Trung Nghĩa.
Sinh năm: Kỷ Mão (1939), thôn Việt Dũng.
Mất ngày: 4 - 5 năm Kỷ Hợi (2019), thọ 81 tuổi.
Mộ quy
Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm 2 Giao Tiến.
Ông là con trai cụ Cao Văn Tri. Năm 1964
- 1975 tham gia Quân đội ở Tiểu đoàn 2, Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần. Đơn vị ở
tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh, phục vụ chiến trường tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ
chiến tranh chống Mỹ, chức vụ Máy trưởng tàu vận tải. Năm 1975 về phục viên,
làm ruộng, buôn bán nhỏ và tham gia công tác Văn hóa ở địa phương. Từ năm 2007
- 2013 làm Trưởng đài Truyền thanh HTX Quyết Tiến. Từ năm 2017 - 2019 làm Thủ từ
miếu thôn Thượng Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; Huân
chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhì và Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Vận tải
Quân sự; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Người cao tuổi; Kỷ niệm chương của Trung
ương Hội CCB Việt Nam. Năm 1995 tham gia chỉ đạo xây dựng lăng Cao Trần Bát đại
tổ. Năm 2015 - 2016 tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Bà Hoàng Thị húy Nhâm, hiệu Diệu Quý.
Sinh năm:
Tân Tỵ (1941), thôn Việt Dũng.
Mất ngày:
7 - 4 năm Kỷ Hợi (2019), thọ 79 tuổi.
Mộ quy lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Hoàng Văn Cầu, thôn Việt Dũng. Đương thời làm nông nghiệp và buôn
bán nhỏ.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 4 con gái.
Con trai:
- Cao Văn Thục.
Bốn con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thảo, sinh
năm 1966. Chồng là Phạm Văn Thu, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường. Gia đình làm
nông nghiệp. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Nhung, sinh
năm 1969. Chồng là Vũ Văn Tiến, con ông Vũ Văn Đốc, thôn Quyết Thắng. Gia đinh
làm nông nghiệp. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Lan, sinh năm
1975. Chồng là Phạm Văn Toàn, con ông Phạm Văn Uông, xã Hoành Sơn. Gia đình làm
ăn sinh sống ở quê. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
- Thứ
tư là Cao Thị Huệ, sinh năm 1976. Năm 1993 đạt giải Nhất toàn quốc môn Văn
THPT, được tặng danh hiệu Tài năng trẻ và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Năm 1997 tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội, năm 2007 tốt nghiệp Cao học nhận bằng
Thạc sỹ Văn học. Từ năm 1997 đến nay dạy Văn ở Trường chuyên Lê Hồng Phong, thành
phố Nam Định. Chồng là Đặng Văn Hải, thành phố Nam Định. Sinh được 1 con
trai và 1 con gái.
12. 1.4.16 - Ông Cao Văn Minh.
Sinh ngày: 9 - 2 - 1966 (Bính Ngọ), xã Bạch Long.
Ông là con trai cụ Cao Lương Sách. Học
xong Cấp II ông ở lại quê nhà làm nghề sản xuất và kinh doanh muối, xã Bạch
Long. Từ năm 2010
- 2018 làm Xóm,
Đội trưởng 8 Thành Tiến, xã Bạch Long.
Bà Phạm Thị Hiền.
Sinh ngày: 24 - 8 - 1966 (Bính Ngọ).
Bà
là con gái cụ Phạm Văn Quý, xã Giao Yến. Làm nghề sản xuất và kinh doanh muối.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 1 con gái.
Hai con
trai: - Trưởng là Cao Văn Dũng.
- Thứ
hai là Cao Văn Sỹ.
Con
gái:
- Cao Thị Quỳnh, sinh năm 1997. Năm 2015 tốt
nghiệp THPT, học Trường CĐSPMN. TW. Năm
2017 - 2018 làm giáo viên Mầm non ở Quảng Ninh. Chồng là Nguyễn Văn Đại, con
ông Nguyễn Văn Hải, xã Xuân Hùng, Xuân Trường. Hiện nay là chủ 2 cửa hàng Spa ở
Giao Thuỷ.
B - CHI THỨ HAI
12.
2.2.17- Cao
Công húy Trung Chính.
Sinh năm:
Nhâm Ngọ (1942), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày:
15 - 2 năm Canh Dần (2010), thọ 69 tuổi. Bình tro để ở chùa Đình Thành,
phường Tân Kiểng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông là con trai cụ Cao Trung Tránh. Từ
năm 1954 theo mẹ vào làm ăn, sinh sống ở thành phố Sài Gòn. Gia đình ở SN 53,
Đường 25, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Trần Thị Hoa.
Sinh năm:
Đinh Hợi (1947).
Bà quê ở ấp Thành An, xã Thành Trị, huyện Gò
Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Bà làm nội trợ và buôn bán nhỏ.
Ông bà
sinh được 7 con trai:
- Trưởng là Cao Trung Hiếu.
- Thứ hai là Cao Thành Đức.
- Thứ ba là Cao
Minh Phú.
- Thứ tư là Cao Thế Minh.
- Thứ năm là Cao Trọng Tuấn.
- Thứ sáu là Cao Trần Hải.
- Thứ bảy là Cao Thành Long.
12. 2.2.18 - Cao Công huý Văn Trọng, hiệu Phúc Trường.
Sinh ngày:
9 - 11- 1956 (Bính Thân), thôn Cộng Hoà.
Mất ngày:
14 - 6 năm Canh Tý (2020), thọ 65 tuổi.
Mộ quy Hoạt Tế Lăng, nghĩa trang Bách Linh, Xóm
2 Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Ngọ.
Năm 1976, tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Công tác ở ngành Công an,
tỉnh Nam Định, phục vụ liên tục 32 năm, cấp hàm Trung tá. Năm 2008 về nghỉ hưu.
Được khen thưởng: Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba và Huy chương
Bảo vệ ANTQ. Gia đình ở SN 9, Ngõ 102, đường Mạc Thị Bưởi, thành phố Nam Định. Năm 2014 ông tổ chức sửa chữa, nâng cấp nhà thờ
của chi. Năm 2015 - 2016 ông tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Bà Trần Thị Hồng.
Sinh
năm: Canh Tý (1960).
Bà là
con gái cụ Trần Thanh Mai, xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Làm Phó Chủ
tịch Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Nam Định. Năm 2005 chuyển sang làm Phó Chủ tịch
Liên đoàn lao động tỉnh Nam Định. Được thưởng: Huân chương Lao động hạng Ba; Bằng
khen của Thủ tưởng Chính phủ; Huy chương vì sự nghiệp Giải phóng Phụ nữ; Kỷ niệm
chương: Tổng LĐLĐVN, Bộ LĐTBXH, Toà án Tối cao, Hội Cựu chiến binh Việt Nam,
Chiến sỹ Trường Sơn. Huy hiệu 30 và 40 năm tuổi Đảng.
Ông bà
sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con trai: - Cao Đình
Trang.
Con gái:
- Cao Hồng Ngọc, sinh ngày 31
- 3 - 1993. Học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Tốt nghiệp năm 2016,
làm việc ở Công ty TNHH An Huy, Thành phố Hà Nội. Chồng là Bùi Văn Thức con ông
Bùi Văn Nghi, thôn Chanh Thượng, xã Liêm
Sơn, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Nhà ở Số 24C, Ngõ 178, phố Quan Nhân, Q. Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội.
12. 2.2.19 - Ông Cao Văn Tôn.
Sinh năm:
Nhâm Dần (1962), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Ngọ.
Còn nhỏ học tại quê hương. Năm 1969 vào ngành Công an, công tác trong ở Sở Công
an thành phố Hồ Chí Minh, cấp bậc Thiếu tá. Nghỉ hưu năm 2013. Được thưởng Huy
chương Chiến sỹ vẻ vang: Nhất, Nhì, Ba.
Gia đình ở SN 550, đường Hưng Phú, Phường
9, Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Nguyễn Thị Phượng.
Sinh năm:
Kỷ Dậu (1969).
Bà quê ở thành phổ Hồ Chí Minh.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Quang Anh.
Con gái:
- Cao Lan Anh, sinh ngày 22 - 5 -
1995. Học Trường Đại học Ngoại ngữ thành phố Hồ Chí Minh. Ra trường năm 2017.
Hiện nay làm việc tại Lãnh sự quán của Thái Lan ở thành phố Hồ Chí Minh.
12. 2.2.20 - Ông Cao Văn Kính.
Sinh ngày:
5 - 10 - 1967 (Đinh Mùi), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung Ngọ.
Năm 1982 tốt nghiệp Trường cấp II, xã Giao Tiến. Năm 1986 gia nhập Quân đội,
công tác tại Cục Hậu cần, Tổng cục Hậu cần. Tháng 8 - 2008 về nghỉ theo chế độ
110 của Bộ Quốc phòng. Làm ăn, sinh sống ở thành phố Hà Nội.
Gia đình ở Số 8, dẫy G, tổ dân phố Số 6,
phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Bà
Hoàng Thị Liên.
Sinh ngày:
17- 1 - 1972 (1971, Tân Hợi).
Bà là con gái cụ Hoàng Bảo, xã Nhật Tân, huyện
Tiên Lữ, Hưng Yên.
Ông bà
sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Hoàng
Anh.
- Thứ hai là Cao
Hoàng Sơn.
12. 2.2.21 - Ông Cao Văn Tặng.
Sinh
năm: Giáp Dần (1974), thôn Cộng Hoà.
Ông là
con trai thứ tư cụ Cao Trung Ngọ. Ông làm nông nghiệp và nghề sơn xây dựng tại
quê nhà.
Năm
2014 ông chỉ đạo sửa chữa, nâng cấp nhà thờ của chi.
Bà
Nguyễn Thị Đào.
Sinh
năm: Đinh Tỵ (1977).
Bà là
con gái cụ Nguyễn Văn Đoan, xã Xuân Phú, huyện Xuân Trường. Từ năm 2009 làm việc tại Công ty TNHH MTV Khai thác công trình
Thủy lợi Xuân Thủy.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thu Hà, sinh
năm 2001. Chồng là Nguyễn
Xuân Trường, con
ông Nguyễn Văn Lĩnh, Xóm 3, xã Giao Hà. Đã sinh được 1con trai.
- Thứ
hai là Cao Hà Phương, sinh năm 2008.
12. 2.4.22 - Ông Cao Văn Hùng.
Sinh ngày:
9 - 9 - 1952 (Nhâm Thìn), Bệnh viện Thành phố Hải Phòng.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Hưng Lợi. Năm
1970 tốt nghiệp Trương cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1972 học ngành Trắc địa
khóa 17,
Trường Đại học Mỏ
Địa chất. Năm 1977 công tác ở phòng Kỹ thuật, Đoàn Đo đạc địa hình 1, Cục Đo đạc
Bản đồ Nhà nước, thị trấn Kẻ Sặt, tỉnh Hải Dương. Năm 1978 công tác ở Trường
Trung học Đo đạc và Bản đồ 2, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,
làm giáo viên, Chủ nhiệm Bộ môn và Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của Trường. Năm
1981 công tác ở Đoàn Đo đạc địa hình 7, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1982 công tác ở Đoàn Đo đạc Bản đồ, thuộc Ban Quản lý Ruộng đất tỉnh Hà Nam
Ninh, làm Trưởng phòng Đo đạc Bản đồ. Năm 1992 tách tỉnh về làm Trưởng phòng Kỹ
thuật Đo đạc Bản đồ, Sở Địa chính tỉnh Nam Định (nay là Sở Tài nguyên và Môi
trường), cấp bậc chuyên viên chính: 8/9. Tháng 10 năm 2012 nghỉ hưu. Được tặng
Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, Kỷ niệm chương ngành Quản lý đất đai.
Gia đình trước ở SN 96.I, Ô 17, phường
Hạ Long thành phố Nam Định. Hiện nay ở Xóm 27, xã Giao Thiện.
Năm 2013 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà
thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời 10) và năm 2014 xây dựng lăng mộ nhánh tổ Cao Hưng
Lợi (đời 11). Năm 2015 - 2016 tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng. Ông tham
gia biên soạn Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2022.
Bà Vũ Thị Hồng Miến.
Sinh năm:
Quý Tỵ (1953).
Bà là con gái cụ Vũ Văn Ty, Xóm 21, xã Giao
Thiện. Bà làm nông nghiệp và nội trợ gia đình.
Ông bà
sinh được 4 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ngọc Hân, sinh
ngày 13- 8 - 1978. Năm 2000 tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Công tác ở
Trung tâm Kỹ thuật công nghệ Địa chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, tỉnh Nam Định.
Chồng là Nguyễn Quang Sự, con ông Nguyễn Quang Tý, xã Hợp Hưng, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Số 5, Ngõ 206, đường Tô Hiến Thành, Thành
phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
- Thứ hai là Cao Thị Hồng Nhung, sinh
ngày 04 - 5 - 1981. Học Cao đẳng Cắt may và Trung cấp đo đạc Bản đồ. Làm việc tại
Trung tâm Địa chính Đô thị phía Nam, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện
nay làm tự do. Chồng là Nguyễn Trường Khải, con ông Nguyễn Hoàng Tuấn, Phường
1, thị xã Ngã 5, tỉnh Sóc Trăng. Sinh được 1 con gái, 1 con trai. Gia đình ở
Khóm 1, Phường 1, Thị xã Ngã 5, tỉnh Sóc Trăng.
- Thứ ba là Cao Thị Thuận, sinh ngày
17- 7 - 1984. Năm 2007
tốt nghiệp Trường
Đại học Thủy sản Nha Trang. Ra trường làm việc tại Công ty TNHH Thủy sản Thiên
Mã, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Hiện nay làm việc ở Công ty Dầu gió Cây
Búa, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chồng là Đoàn Minh Thới,
con ông Đoàn Văn Xệch, Phường 5, thành phố Vũng Tàu. Sinh được 1 con gái, 1 con
trai. Gia đình hiện nay ở thành phố Vũng Tàu.
- Thứ tư là Cao Thị Thìn, sinh ngày
25- 10 - 1988. Học Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Khoa Đất đai và Môi trường.
Hiện nay công tác tại Chi cục Môi trường, Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh
Nam Định. Chồng là Khương Văn Thanh, con ông Khương Văn Nghĩa, xã Nghĩa Châu,
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Số 16, Ngách
66/7, đường Lưu Hữu Phước, phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
12. 2.4.23 - Ông Cao Bá Khoát.
Sinh
ngày: 6 - 7 - 1955 (Ất Mùi), Bệnh viện Thành
phố Hải Phòng.
Ông
là con trai thứ hai cụ Cao Hưng Lợi. Năm 1971 tốt nghiệp Trường cấp III huyện
Giao Thủy. Năm 1972 vào Quân đội, huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 19, Tỉnh đội
Nam Hà, sau đi học tại Trường lái xe 255, Tổng cục Hậu cần. Tháng 11 - 1972 lái
xe tại Sư đoàn Công binh 473, Đoàn 559 mở tuyến đường Đông Trường Sơn. Năm 1977
- 1982 học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng, chuyên ngành xe Quân sự.
Năm 1982 ra trường là Kỹ sư xe Quân sự
công tác ở Phòng Kỹ thuật Trường Sỹ quan Phòng hóa, Binh chủng Hóa học.
Năm 1986 công tác ở Phòng Xe máy, Cục Kỹ thuật, Binh chủng Hóa học. Năm 2004
làm Trưởng ban Lịch sử tổng kết ngành Kỹ thuật Hóa học. Năm 2008 được thăng cấp
hàm Đại tá. Tháng 10 - 2009 về nghỉ hưu.
Được
khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì;
Huân chương Chiến
công hạng Nhất; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Chiến
sỹ Giải phóng; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; Huy chương vì sự nghiệp Vận tải
Quân sự; Kỷ niệm chương: Chiến sỹ Trường Sơn, Bộ đội Hoá học, Cựu Chiến binh Việt
Nam; Huy hiệu 30 năm, 40 năm tuổi Đảng. Gia đình ở SN 37, Ngõ 93, phố Vương Thừa
Vũ, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Năm
2013 ông hiến đất, tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời
10) và năm 2014 xây dựng lăng mộ nhánh tổ Cao Hưng Lợi (đời 11) ở xã Giao Thiện.
Năm 2015 - 2016 ông làm Phó ban Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng. Ông tham gia biên
soạn Gia phả họ Cao Trần năm 2018, Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Thao.
Sinh
ngày: 6 - 9 - 1954 (Giáp Ngọ).
Bà là con gái cụ Nguyễn Hữu Dưỡng, thôn Mai
Viên, xã Song Mai,
huyện Kim Động,
tỉnh Hưng Yên.
Năm
1972 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1972 - 1977 học Trường Đại
học Dược Hà Nội, ra trường là Dược sỹ Cao cấp, làm việc ở Công ty Dược phẩm
Trung ương I Hà Nội. Năm 1979 vào Quân đội, công tác tại Bệnh viện Dã chiến 4
thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần, ở thị xã Sơn Tây. Năm 1980 công tác tại Kho
Quân y 708, ở huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Năm 1985 với cấp hàm Thượng uý
xuất ngũ về Công ty Dược phẩm Trung ương I, Hà Nội. Năm 2009 nghỉ hưu.
Được tặng thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang
hạng Ba, Huy chương vì Sức khỏe Nhân dân.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Hải Như, sinh
ngày 21- 2 - 1983. Năm 2005 tốt nghiệp Cử
nhân Kinh tế Trường Đại học KTQD Hà Nội, ngành QTKD Thương mại, làm việc ở Công
ty Dược phẩm Trung ương I Hà Nội. Chồng là Tạ Quốc Khánh, con ông Tạ Việt Hồng,
thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Sinh được 1 con
gái, 1 con trai.
- Thứ hai là Cao Quỳnh Liên, sinh ngày
1- 11 - 1985. Năm 2007 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương
Hà Nội, ngành Kinh tế đối ngoại, làm việc ở Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên WWF,
Hà Nội. Chồng là Lê Thanh Nam, con ông Lê Đình Ba, thôn Thiết Đinh, xã Định Tường,
huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở Phòng 1208,
Tháp A, Toà nhà GREEN PARK - TOWER, Ngõ 6 đường Dương Đình Nghệ, phường Yên
Hoà, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
12. 2.4.24 - Cao Công huý Quốc Đạt, hiệu Tâm Thiện.
Sinh ngày:
24 - 6 - 1969 (Kỷ Dậu), xã Giao Thiện.
Mất ngày:
23 - 10 năm Giáp Ngọ (2014), hưởng 46 tuổi.
Mộ quy lăng của gia đình nghĩa trang ấp Phú
Ninh, xã Giao Thiện.
Ông là con trai cả, bà hai cụ Cao Hưng Lợi.
Làm ăn, sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp ở quê. Gia đình ở Xóm 25, xã Giao
Thiện.
Năm
2013 ông tham gia tổ chức xây dựng nhà thờ nhánh tổ Cao Trung Thuỵ (đời 10) ở
xã Giao Thiện.
Bà Vũ Thị The.
Sinh năm:
Đinh Mùi (1967).
Bà là con gái cụ Vũ Văn Lô, xã Hồng Thuận. Làm
nông nghiệp và
nội trợ gia
đình.
Ông bà
sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Trung Kiên.
Con gái:
- Cao Thị Thu, sinh ngày 14 - 3 -
1992. Năm 2010 - 2013 học Trường Cao đẳng
Kinh tế Công nghiệp Hà Nội. Hiện nay làm việc tại thành phố Nam Định. Chồng là Đỗ Viết Kim, con
ông Đỗ Đức Toàn ở phường Lộc Hạ, thành
phố Nam Định. Sinh được 2 con trai, 1 con gái. Gia đình ở Tổ 10, đường Thanh
Bình, phường Lộc Hạ, Thành phố Nam Định.
12. 2.4.25 - Ông Cao Văn Sơn.
Sinh ngày:
21- 8 - 1974 (Giáp Dần), xã Giao Thiện.
Ông là con trai thứ hai, bà hai cụ Cao Hưng Lợi.
Năm 1996 vào làm ăn, sinh sống bằng nông nghiệp, thôn Đồng Tâm, xã Buôn Triết,
huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Bà Tôn Nữ
Bạch Yến.
Sinh
năm: Nhâm Tý (1972).
Bà là
con gái cụ Tôn Thất Nhượng, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ông bà sinh được: 3 con trai và 1 con gái.
Ba con trai:
- Trưởng là Cao Văn Suất.
- Thứ hai là Cao Văn Sắc.
- Thứ ba là Cao Quốc Sinh.
Con gái:
- Cao Nữ Yến Vy, sinh ngày 23 -
11 - 2002. Năm 2020 tốt nghiệp THPT. Từ năm 2021 học hệ đại học ở Học viện Ngân
hàng Thành phố HCM.
12. 2.5.26 - Ông Cao Đức Triệu.
Sinh ngày:
2 - 11 - 1959 (Kỷ Hợi), thôn Quyết Tiến.
Ông
là con trai cụ Cao Văn Giới. Năm 1979 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy.
Năm 1979 - 1985 học ở Trường Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp ra trường là Bác
sỹ. Từ năm 1986 - 1993, công tác ở Sở Y tế thành phố Hải Phòng. Năm 1993 ông bà
sang Cộng hòa Liên bang Nga làm kinh doanh, là thương nhân thành đạt. Năm 2015
về làm ăn ở Việt Nam. Gia đình ở Phòng 1604, NO1 - T2, khu Ngoại giao đoàn, Thành
phố Hà Nội.
Năm
2015 - 2016 ông tham gia Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Bà Vũ Thị Thanh Diệp.
Sinh ngày:
10 - 3 - 1964 (Giáp Thìn).
Bà là con gái cụ Vũ Quốc Bình, thôn Việt
Dũng. Năm 1981 tốt nghiêp. Trường cấp III Thái Phiên, thành phố Hải Phòng. Năm
1981 - 1986 học Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Khoa tiếng Nga. Năm 1986
- 1992 làm phiên dịch ở Công ty Da dầy Hải Phòng. Năm 1993 cùng chồng sang làm
ăn ở Cộng hòa Liên bang Nga. Năm 2010 trở về Việt Nam.
Ông
bà sinh được 3 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Hương
Giang, sinh ngày 11- 6 - 1989. Học Đại học tại nước Anh. Hiện nay làm việc ở
Công ty CELTRAL GRUP Thái Lan tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Thứ hai là Cao Ngọc Hải Hà,
sinh ngày 19 - 9 - 1997. Học Trường Đại học RMIT tại Việt Nam, năm 2019 tốt
nghiệp. Hiện nay làm việc ở Công ty Thời trang tại Hà Nội.
- Thứ ba là Cao Thùy Dương,
sinh ngày 20 - 8 - 1999. Học Đại
học tại Học viện
Tài chính Hà Nội, năm 2021 tốt nghiệp. Hiện nay làm việc ở Công ty VIETTEL tại
Hà Nội.
Ông có 1 con trai: - Cao Trần Bảo Long.
12.
2.5.27 - Ông Cao Đông Thiện.
Sinh ngày:
14 - 10 - 1960 (Canh Tý), xã Giao Thiện.
Ông là con trai cụ Cao Văn Tiu. Tháng 3 - 1978
cùng gia đình từ xã
Giao Thiện chuyển
vào lập nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, thời
gian đầu làm ruộng, sau chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Gia đình hiện nay ở ấp
Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Bà Đoàn Thị Xuyên.
Sinh năm:
Tân Sửu (1961).
Bà là con gái cụ Đoàn Văn Cát, xã Giao Hà, làm
nông nghiệp.
Ông
bà sinh được: 2 con trai và 3 con gái.
Hai con trai:
- Trưởng là Cao Đông Cương.
- Thứ hai là Cao Thiên Tài.
Ba
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Gấm, sinh ngày 04 - 3 - 1984. Chồng là Trần Văn Sơn, con ông
Trần Nhất Sinh, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân
Trường. Sinh được 2 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Ngọc Huyền, sinh
ngày 14 - 5 - 1994. Chồng là Nguyễn Văn Tuyên, con ông Nguyễn Văn Lanh, xã Xuân
Châu, huyện Xuân Trường. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Thúy Hằng, sinh ngày 10
- 6 - 1997. Chồng
là Ngô Văn
Trong, con ông Ngô Văn Sáng, quê ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Sinh được
1 con gái.
C - CHI THỨ BA
12. 3.1.28 - Ông Cao Trần Dưỡng.
Sinh ngày:
24 - 12 - 1954 (Giáp Ngọ), thôn Toàn Thắng.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Xuân Phiêu, còn
có tên là Hồi. Năm 1974 vào Quân đội. Năm 1975 - 1977 ở Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng,
Trung đoàn Gia Định, với các chức vụ: Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội
phó, tham gia giải phóng Sài Gòn và Lực lượng Quân quản Thành phố HCM. Năm 1977
lên Xa Mát, tỉnh Tây Ninh bảo vệ Biên giới. Năm 1979 tham gia giải phóng
Campuchia. Năm 1979 - 1980 học Trường Sỹ quan Lục quân 2, ra làm giáo viên Trường
Quân chính H35, Bộ tư lệnh Thành phố HCM. Năm 1980 - 1984 làm Trợ lý tác chiến
Trung đoàn 770, sau đó làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung Đoàn 770. Năm
1985 - 1988, học viên Trường Chuyên gia Quân sự 481, học xong đi làm chuyên gia
Quân sự ở Campuchia, cấp bậc Đại úy, Trung đoàn phó. Năm 1989 về nước công tác ở
BCH Quân sự thành phố HCM, cấp bậc Thiếu
tá Phó Tham mưu trưởng, Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Năm 1991 về nghỉ hưu
và tham gia công tác ở phường: Phó Chủ tịch Hội CCB, Phó Chủ tịch HĐND, Phường
Đội trưởng. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ; Huân chương Chiến
công, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc; Huân chương CSVV hạng: Nhất, Nhì, Ba; Kỷ niệm
chương Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Kỷ niệm chương vì An ninh Tổ Quốc; Huy hiệu
45 năm tuổi Đảng. Gia đình ở 260/3 Tô Ngọc Vân, phường Linh Đông, thành phố Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Năm
2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ của chi họ.
Bà
Hoàng Thị huý Liên.
Sinh
năm: Bính Thân (1956), thôn Đoàn Kết
Mất
ngày: 20 - 3 năm Đinh Hợi (2007), hưởng
52 tuổi.
Mộ
an táng ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Bà
là con gái cụ Hoàng Văn Thiệu, thôn Đoàn Kết. Đương thời làm
ruộng và buôn
bán nhỏ ở quê. Năm 1989 cùng con chuyển vào quận Thủ Đức (nay là TP Thủ Đức), thành
phố Hồ Chí Minh, nơi chồng công tác, làm ăn, sinh sống bằng nghề buôn bán nhỏ.
Ông
bà sinh được: 3 con trai và 3 con gái.
Ba con trai:
- Trưởng là Cao
Văn Đại (1981 - 17.7.1991).
- Thứ hai là Cao
Trần Dương.
- Thứ
ba Cao Văn Bảy (1997 - 26.3.1997).
Ba
con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thúy, sinh
năm 1984. Làm ở Bệnh viện Da liễu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Đặng
Kiều Hưng, con ông Đặng Văn Thượng, tỉnh Hải Dương. Sinh được 1 con trai, 1 con
gái.
- Thứ hai là Cao Thị Thảo, sinh năm
1987, làm công nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Trương Hoài Phong, con
ông Trương Việt Sơn ở Tân Hạnh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Sinh được 1 con
gái.
- Thứ ba là Cao Thị Thắm, sinh năm
1993. Làm công nhân tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bà kế Hồ Thị Phương.
Sinh năm:
Bính Tỵ (1966).
Bà là con gái cụ Hồ Xuân Diên, xã Sơn Bằng, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1990 - 2021 làm việc cho nhiều công ty tư nhân ở
thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2022 về nghỉ hưu.
Ông
bà sinh được 1 con trai: - Cao Thanh Bình.
12. 3.1.29 - Ông Cao Văn Hiền.
Sinh ngày:
26 - 10 - 1963 (Quý Mão), thôn Toàn Thắng.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Xuân Phiêu. Năm
1982 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1983 - 1988 học Trường Đại
học
Bách khoa Hà Nội.
Năm 1991 - 1996 làm việc ở Nhà máy Phốt phát Long Thành Đồng Nai, Công ty Phân bón miền Nam. Từ năm
1996 đến nay làm
việc cho Liên
doanh dầu khí VIETSOPETRO, là Kỹ sư trưởng Cơ khí động
lực. Gia đình ở 636/1/9, Trương Công Định, thành phố Vũng
Tàu.
Năm 2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ
của chi họ.
Bà Ngô Thị
Hằng.
Sinh ngày: 15 - 1 - 1968 (1967, Đinh Mùi).
Bà quê ở Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Năm 1993 tốt nghiệp Cử nhân Anh văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ
năm 1994 đến nay làm việc ở Công ty Đăng kiểm Hàng hải LOYDS của Anh.
Ông
bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao
Tùng Sơn.
- Thứ hai là Cao Hoàng Bách.
12. 3.1.30 - Ông Cao Song Hảo.
Sinh
ngày: 27 - 7 - 1967 (Đinh Mùi), thôn
Toàn Thắng.
Ông là
con trai thứ ba cụ Cao Xuân Phiêu. Gia đình buôn bán nhỏ ở
Thành phố Hồ Chí
Minh. Năm 2015 lên tỉnh Cao Bằng làm nghề buôn bán tại thị trấn Hòa Thuận, huyện
Quảng Hoà. Năm 2001, 2013 ông đóng góp xây dựng lăng mộ của chi.
Bà Trần Thị Thúy Nhâm (đã ly hôn).
Sinh năm
1972, xã Giao Nhân.
Ông bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Huy Hoàng.
- Thứ hai là Cao Thế Huy.
Bà hai
Ngan Thị Bằng.
Sinh
ngày: 10 - 10 - 1972 (Nhâm Tý).
Bà là
con gái cụ Ngan Văn Pheo, làm nghề buôn bán ở thị trấn Hoà Thuận, huyện Quảng
Hoà, tỉnh Cao Bằng.
12. 3.1.31 - Cao Công huý Ngọc Hải.
Sinh
năm: Kỷ Dậu (1969), thôn Toàn Thắng.
Mất ngày: 16 - 12 năm Ất Dậu (2005), hưởng 37 tuổi.
Mộ quy
lăng của Chi, nghĩa trang Cựu Trung, Xóm 5 Giao Tiến.
Ông là
con trai thứ tư cụ Cao Xuân Phiêu, chưa lập gia đình. Năm 2001 ông tham gia
đóng góp xây dựng lăng mộ của chi.
12. 3.2.32 - Ông Cao Văn Chung.
Sinh
năm: Canh Tý (1960), xã Tuy Lộc, thành
phố Yên Bái.
Ông là
con trai cụ Cao Văn An. Năm
1979 - 1982 ông tham gia Quân đội. Gia đình làm nông nghiệp ở thôn Xuân Lan, xã
Tuy Lộc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Bà Vũ Thị Định.
Bà quê ở xã Giao Tiến, làm nông nghiệp
và nội trợ gia đình.
Ông bà sinh được 4 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Lượng, sinh
năm 1984. Chồng ở xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái. Sinh được 1 con trai, 1 con
gái.
- Thứ hai là Cao Thị Dung, sinh năm 1986.
Chồng ở xã Minh Quán, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Sinh được 1 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Thúy, sinh năm
1988. Làm công nhân Công ty Lâm sản Yên Bái.
-
Thứ tư là Cao Thị Thịnh, sinh năm 1990. Làm công nhân da dầy ở tỉnh Bình Dương.
D - CHI THỨ TƯ
12. 4.1.33 - Cao Công húy Trung Toản, hiệu Minh Mẫn.
Sinh
năm: Bính Dần (1926), thôn Thống Nhất.
Mất ngày: 19 - 7 năm Mậu Tý (1948), hưởng 23 tuổi.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Ngọc Xướng.
Năm 1945 ông tham gia Cách mạng ở tỉnh Yên Bái, đến năm 1948 hy sinh và mất
tích ở Yên Bái.
Bà Vũ Thị Nhuần.
Bà là
con gái cụ Vũ Văn Bân, thôn Phấn Đấu. Chưa có con, ông mất, bà đi tái giá ở
Thanh Hóa.
12.
4.1.34 - Cao Công húy
Trung
Tôn, hiệu Phúc Tường.
Sinh
năm: Canh Ngọ (1930), thôn Thống Nhất.
Mất ngày: 16 -
4 năm Quý Mùi (2003), thọ 74 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng,
Xóm 12 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Ngọc Xướng.
Năm 1947 - 1954 ông tham gia lực lượng du kích ở địa phương chống thực dân
Pháp. Được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Đương thời
ông rất giỏi nghề thợ mộc. Năm 1981 - 1985 ông tổ chức quy tập mộ và xây dựng
bước đầu lăng của chi. Năm 2001 tổ chức nâng cấp lăng mộ của chi. Năm 1996 ông
hiến đất và tổ chức xây dựng nhà thờ chi lần thứ nhất.
Bà Bùi Thị húy Minh, hiệu Diệu Mẫn.
Sinh
năm: Tân Mùi (1931).
Mất ngày: 15 - 10 năm Giáp Ngọ (2014), thọ 84 tuổi.
Mộ quy
lăng cùng với ông.
Bà là
con gái cụ Bùi Văn Chương, xã Hoành Sơn. Từ năm 1947 - 1949 tham gia du kích chống
thực dân Pháp ở xã Hoành Sơn, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen tham gia
Kháng chiến chống Pháp.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 5 con
gái.
Bốn con
trai: - Trưởng
là Cao Quang Chức.
- Thứ hai là Cao Xuân Vĩnh.
- Thứ ba là Cao Xuân Dương.
- Thứ tư là Cao Xuân Dưỡng.
Năm con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thanh, sinh năm
1953. Chồng là Vũ Văn Hoan, con ông Vũ Văn Hỷ, cùng xã. Sinh được 3 con trai, 1
con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Hòa, sinh năm
1955. Chồng là Nguyễn Văn Hiệp, con ông Nguyễn Thế Phàn, cùng thôn. Sinh 2 con trai,
3 con gái.
- Thứ ba là Cao Thị Lan, sinh năm
1960. Chồng là Hoàng Văn
Đệ, con ông
Hoàng Cuông, cùng thôn. Sinh được 1 con trai, 5 con gái.
- Thứ tư là Cao Thị Cúc, sinh năm 1966.
Chồng là Doãn Văn
Ánh, con ông
Doãn Văn Ry, cùng thôn. Sinh được 2 con trai, 1 con gái.
- Thứ năm là Cao Thị Diệp. Chồng là Phạm Văn
Dung, con ông Phạm Văn Kỷ, cùng thôn. Sinh được 1 con trai, 2 con gái.
12. 4.1.35 - Cao Công huý Hữu Nghị, hiệu Phúc Hội.
Sinh năm: Tân Tỵ (1941), thôn Thống Nhất.
Mất ngày: 24 -
8 năm Canh Tý (2020), thọ 80 tuổi.
Mộ quy
lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng, Xóm 12 Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ ba cụ Cao Ngọc Xướng. Năm 1965 ông tham gia Quân đội, năm 1973
về nghỉ theo chế độ bệnh binh. Được thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng
Ba, Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Ba. Ông rất giỏi nghề thợ mộc.
Bà Hoàng Thị Vinh.
Sinh
năm: Tân Tỵ (1941).
Bà là
con gái cụ Hoàng Văn Môn thôn Thống Nhất, làm nông nghiệp.
Hai cụ sinh được: 3 con trai và 1 con
gái.
Ba con trai:
- Trưởng là Cao Thanh Bình.
- Thứ hai là Cao Thanh Thường.
- Thứ ba là Cao Trường Giang.
Con gái:
- Cao Thị Vân, sinh năm 1980. Chồng là Đỗ Văn
Hinh, con ông Đỗ Văn Hoán, thôn Trung. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
Bà hai Nguyễn Thị Sinh.
Sinh
năm: Giáp Ngọ (1954).
Bà là
con gái cụ Nguyễn Tường, xã Đồng Văn, Tân Kỳ, Nghệ An.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con
gái.
Hai con
trai:
- Thứ nhất là Cao Thanh Sơn.
- Thứ hai là Cao Thanh Nam.
Con gái: - Cao Thị
Văn, sinh năm 1988.
12. 4.1.36 - Ông Cao Anh Long.
Sinh ngày: 7 - 8 - 1940 (Canh Thìn), Bạch Mai, Hà Nội.
Ông là
con trai trưởng cụ Cao Đức Xương. Năm 1959 - 1960, tốt
nghiệp Trường cấp
III Lam Sơn, Thanh Hóa. Học chuyên tu Trường Ngoại ngữ Trung ương Hà Nội, Khoa
tiếng Trung sau học Trường ĐHNN I Hà Nội. Năm 1964 tốt nghiệp Kỹ sư Nông nghiệp
dạy ở Trường Trung cấp NLTW. Năm 1967 - 1975 giảng viên Trường ĐHNN II Hà Bắc.
Năm 1975 - 1984 giảng viên Trường ĐHNN I Hà Nội. Năm 1984 - 1987 làm chuyên gia
tại nước Cộng hòa Mozambique. Năm 1987 - 2001 là giảng viên chính
Trường ĐHNN I Hà
Nội, kiêm nhiệm Phó Trưởng phòng và Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học của trường.
Năm 1990 lấy bằng Tiến sỹ Nông nghiệp. Được khen thưởng: Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương vì sự nghiệp
Giáo dục và Đào tạo, Huy chương vì sự phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Huy
chương vì sự Khuyến học Việt Nam. Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng.
Gia đình đã từng ở SN 2, Đường Z, tổ dân phố
Nông Lâm, thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Bà Nguyễn Thị Nhiệm.
Sinh
năm : Đinh Hợi (1947).
Bà quê
thôn Trinh Tiết, xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Là Kỹ sư Nông nghiệp. Từ năm 1966 - 2002 liện tục 36
năm công tác ở Bộ môn: Rau - Hoa - Quả, Bộ môn Di truyền - Chọn giống, Khoa
Nông học, Trường ĐHNN I Hà Nội. Được khen thưởng: Huy chương Kháng chiến chống
Mỹ hạng Nhất, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
Ông bà sinh được: 2 con trai và 1 con
gái.
Hai con trai: - Trưởng là Cao Bảo Anh.
- Thứ hai là Cao Việt Anh.
Con gái:
- Cao Thị Quỳnh Anh, sinh 1976. Cử
nhân Kinh tế, ngành QTKD, Trường Đại học Thương mại Hà Nội. Làm Giám đốc Công
ty cổ phần Thiết kế Kỹ thuật cao, đường Nguyễn Văn Linh, quận Long Biên, Hà Nội.
Chồng là Nguyễn Văn Tuấn. Gia đình ở khu đô thị Việt Hưng, quận Long Biên, Thành
phố Hà Nội. Sinh được 1 con trai, 2 con gái.
12. 4.1.37 - Ông Cao Đức Hải.
Sinh
ngày: 22 - 4 - 1946 (Bính Tuất), huyện
Nông Cống, Thanh Hóa.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Đức Xương. Năm 1966 vào Quân đội ở ngành Tình báo Kỹ
thuật Quân sự: Phòng 2- B4, B5 Quân khu Bình - Trị - Thiên. Năm 1977 chuyển
ngành về làm việc ở Xí nghiệp Chế biến cung cấp Lâm sản Thanh Hóa. Năm 2000 về
nghỉ hưu, sau đó làm việc cho Công ty Bảo hiểm PRUDENTAL, Thanh Hóa. Từ năm
1992 - 2000 học ở Trường Đảng Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Ái Quốc, tỉnh Thanh Hóa. Được
thưởng: Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ hạng Hai, 2 Huân chương Chiến công hạng Ba. Kỷ niệm chương Tổng tiến
công của Chính phủ CMLT miền Nam, Việt Nam. Kỷ niệm chương của Quân khu Bình -
Trị - Thiên. Chiến sỹ thi đua Quyết thắng. Huy chương vì sự nghiệp Bảo hiểm
Nhân thọ. Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng. Gia đình ở SN 15/449, đường Bà Triệu,
phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá.
Bà Đỗ Thị Dung.
Sinh ngày:
10 - 10 - 1951 (Tân Mão).
Bà quê xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa. Từ năm 1968 - 1993 là giáo viên Tiểu học tại xã Trung Chính, huyện Nông Cống,
tỉnh Thanh Hóa. Năm 1994 về nghỉ hưu.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.
Con trai: - Cao Thế Anh.
Ba con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Vân, sinh năm 1974. Năm 1994 tốt nghiệp
Cử nhân Văn chương Trường Đại học Hồng Đức Thanh Hóa. Làm giáo viên THCS, xã
Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Chồng là Hoàng Văn Ninh. Gia đình
ở xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Sinh được 2 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Nga, sinh năm
1976. Năm 1996 tốt nghiệp Cử nhân Văn chương Trường Đại học Sư phạm. Làm giáo
viên Trường Thực hành Sư phạm thuộc Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Chồng là Lê Khai,
xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh được 2 con trai. Gia đình ở thành
phố Đà Nẵng.
- Thứ ba là Cao Thị Mai Anh, sinh năm
1984. Năm 2006 tốt
nghiệp hệ Cao đẳng,
Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, dạy học ở Trường THCS Điện Biên II, thành phố Thanh
Hóa.
12.
4.1.38 - Ông Cao Đức Dũng.
Sinh
ngày: 1 - 1 - 1954 (Giáp Ngọ), huyện
Nông Cống, Thanh Hóa.
Ông là
con trai thứ ba cụ Cao Đức Xương. Năm 1973 tốt nghiệp Trường cấp III Nông Cống
vào Quân đội, ở đơn vị E231, F365. Năm 1973 - 1977 giáo viên G16 Bộ Tham mưu
Quân chủng Phòng không - Không quân. Năm 1977 - 1981 học Khoa Giáo dục Chính trị
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm 1981 - 1994 là giảng viên, Chủ nhiệm Khoa
Giáo dục Chính trị Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Nẵng (sau là Trường Đại học Sư phạm
Đà Nẵng). Năm 1995 - 1998 học Khoa Triết thuộc Viện Triết học Hà Nội, tốt nghiệp
Thạc sỹ. Từ năm 1999 làm Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Tham
gia 5 khóa BCH Đảng bộ trường: Khóa I là Bí thư, các khóa còn lại là Phó Bí
thư. Chủ tịch hội Cựu chiến binh của trường. Nhiều khóa làm Chủ tịch và Phó Chủ
tịch Công đoàn trường. Được khen thưởng: Huy chương vì Thế hệ trẻ, Huy chương
vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, Huy chương vì sự nghiệp Xây dựng Công đoàn, Kỷ
niệm chương công tác Tổ chức, Kỷ niệm chương Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Huy
hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng. Gia đình ở thành phố Đà Nẵng.
Bà
Trần Thị Hạnh.
Sinh ngày:
2 - 2 - 1958 (Mậu Tuất).
Bà quê ở thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Năm
1981 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Giáo dục Chính trị. Năm 1981 -
1994 giảng viên Trường CĐSP Đà Nẵng. Từ năm 1994 giảng viên Khoa Kinh tế, Đại học
Kinh tế thuộc Trường Đại học Đà Nẵng. Năm 1998 lấy bằng Thạc sỹ Triết học tại
Viện Triết học Hà Nội. Được khen thưởng: Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục và
Đào tạo.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con
gái.
Con
trai: - Cao Đức Anh.
Con
gái:
- Cao Thị Hạnh
Chi, sinh năm 1984. Học Khoa Trung văn, Trường Đại học Ngoại ngữ, thuộc Đại học
Đà Nẵng. Làm việc tại Ban Quản lý dự án Thủy điện sông Hinh, tỉnh Quảng Ngãi.
Chồng là Trần Quang Tuấn, Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ở Thành
phố Quy Nhơn.
Đ - CHI THỨ NĂM
12. 5.1.39 - Ông Cao Quang Bình.
Sinh năm: Giáp Ngọ (1954), thôn Cộng Hoà.
Ông là
con trai trưởng cụ Cao Đinh Ruy. Năm 1973 - 1978 ông làm
công nhân xây dựng
ở Khu Gang thép Thái Nguyên. Sau về quê làm nghề
thợ xây và làm
nông nghiệp. Năm 1980 - 1985 làm Thư ký Đội sản xuất Số 8 HTX Nông nghiệp Quyết
Tiến, xã Giao Tiến.
Năm 2000 cùng các em tổ chức xây dựng
lăng mộ của chi. Năm 2015
cùng các con tổ
chức xây dựng nhà thờ của chi trên đất của gia đình. Năm
2015 - 2016 tham
gia Ban Kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Bà Lê Thị Sò.
Sinh
năm: Quý Tỵ (1953), thôn Quyết Thắng.
Bà là
con gái cụ Lê Huy Kỳ, thôn Quyêt Thắng. Năm 1973 - 1978 làm công nhân xây dựng ở
Khu Gang thép Thái Nguyên. Sau về làm nông nghiệp và nội trợ gia đình ở quê.
Ông bà sinh được: 4 con trai và 1 con
gái.
Bốn con
trai:
- Trưởng là Cao Đinh Dương.
- Thứ hai là Cao Đinh Dinh.
- Thứ ba là Cao Đinh Doanh.
- Thứ tư là Cao Đinh Giang.
Con
gái:
-
Cao Thị Ánh, sinh năm 1974. Chồng là Nguyễn Văn Thám, con ông Nguyễn Văn Kinh,
xã Xuân Phú, huyện Xuân Trường. Sinh được 1 con trai, 1 con gái.
12.
5.1.40 - Ông Cao Đình Ban.
Sinh
năm: Bính Thân (1956), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đinh Ruy.
Năm 1975 vào Quân đội, tham gia chiến đấu ở chiến trường tỉnh Bình Dương. Năm
1987, 1988 chiến
đấu bảo vệ biên
giới phía Bắc ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Đơn vị:
Tiểu đoàn 5,
Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, cấp bậc Đại úy. Năm 1990 về nghỉ theo chế độ Bệnh
binh loại 2. Làm nghề thợ xây dựng và nông nghiệp ở quê. Khen thưởng: Huân
chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Nhì, hạng Ba; Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
Năm 2000 cùng với anh, chị, em tổ chức xây dựng
lăng mộ của chi. Năm 2015 - 2016 tham gia tốp thợ xây dựng Hoạt Tế Đường.
Bà Hoàng Thị Đoài.
Sinh
năm: Mậu Tuất (1958), thôn Công Hoà.
Bà là
con gái cụ Hoàng Văn Kỳ thôn Cộng Hòa. Làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 2 con
gái.
Con trai: - Cao Đình Bản.
Hai con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Huệ, sinh năm 1986. Tốt
nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, ngành Công nghệ Thông tin, làm kinh
doanh buôn bán tại gia đình phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội. Chồng là
Tạ Huy Hoàng, con ông Tạ Văn Kiểm ở phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Thành phố
Hà Nội. Sinh được 2 con trai, 1 con gái.
- Thứ hai là Cao Thị Hương, sinh năm 1988.
Học Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Làm việc ở Tập đoàn Công nghiệp Viễn
thông VIETTEL. Chồng là Nguyễn Văn Khải, con ông Nguyễn Văn Hoàn, xã Xuân Phú, huyện
Xuân Trường. Sinh được 2 con gái.
12. 5.1.41 - Ông Cao Ngọc Phong.
Sinh năm:
Quý Mão (1963), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đinh Ruy. Tốt
nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thuỷ. Làm nghề thợ xây dựng và làm nông nghiệp
ở quê.
Năm
2000 ông cùng các anh, chị tổ chức xây dựng lăng mộ của chi. Năm 2015 - 2016
ông là một trong các thợ chính tham gia xây dựng Hoạt Tế Đường và là Trưởng
nhóm thợ phụ trách phần xây Hoạt Tế Lăng.
Bà Hoàng Thị Ánh.
Sinh
năm: Ất Tỵ (1965), thôn Cộng Hoà.
Bà là
con gái cụ Hoàng Văn Thu, thôn Cộng Hòa.
Tốt nghiệp
Trường cấp III huyện Giao Thủy, làm nghề may mặc và làm nông nghiệp ở quê.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Nhung, sinh năm 1990.
Năm 2008 - 2012 học Trường Đại học KTQD Hà Nội, bằng Cử nhân, làm việc ở Tập
đoàn Viễn thông MOBIFONE. Chồng là Lê Văn Hiếu, con ông Lê Văn Huấn xã Phú Lâm,
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Sinh được 1 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Ngọc, sinh năm 1994. Năm 2012 - 2016 học Trường Đại học KTQD, tốt nghiệp bằng Cử nhân, làm việc ở Công ty Chứng khoán VP BANK. Chồng là Phạm Anh Dân, con ông Phạm Anh Du, ở xã Hồng Thuận, huyện Giao Thuỷ. Sinh được 1 trai.
ĐỜI THỨ
MƯỜI BA
A – CHI TRƯỞNG
13.
1.1.1 - Ông Cao Trọng Hiền.
Sinh ngày: 27 - 11
- 1949
(Kỷ Sửu) tại xã Vũ Lăng, huyện Tiền
Hải, tỉnh Thái Bình.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1967 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã
Lào Cai. Năm 1967 - 1972 học Trường Đại
học Giao thông Vận tải Hà Nội, Khoa Cơ khí ô tô. Năm 1972 tốt nghiệp là Kỹ sư
Cơ khí ô tô, ở lại trường làm giảng viên Bộ môn Cơ khí ô tô. Năm 1982 - 1986 đi
nghiên cứu và làm luận án Tiến sỹ ở Tiệp Khắc. Từ năm 1986 đến khi nghỉ hưu
công tác ở Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Đã giữ các chức vụ: Phó
Trưởng Bộ môn rồi Trưởng Bộ môn Cơ khí ô tô. Từ năm 1996 kiêm Giám đốc Trung
tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường Giao thông. Được phong Phó Giáo sư năm
1996. Từ năm 2004 là Viện trưởng Viện Khoa học và Môi trường Giao thông, kiêm
Trưởng Bộ môn Kỹ thuật Môi trường. Được khen thưởng: Nhà giáo Ưu tú, Huân
chương Lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương vì sự
nghiệp
Giáo dục Đào tạo. Gia đình ở Số
nhà 9, Ngõ 97, đường Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội. Năm 2013 đến ở nhà chung cư làng Việt kiều châu Âu, phường
Mộ Lao, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông đầu tư và tổ chức xây dựng lăng mộ gia
đình (từ đời thứ 12), tại nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng Ba Vì, Hà Nội.
Bà Nguyễn Thị huý Mỹ.
Sinh ngày: 29 - 5 - 1949 (Kỷ Sửu), thôn Dọc, xã Liên
Mão.
Mất ngày: 8 - 8 năm Mậu Tý (2008), thọ 60 tuổi.
Mộ quy lăng
gia đình ở nghĩa trang Công viên Vĩnh Hằng Ba Vì, Hà Nội. Bà là con gái cụ Nguyễn
Văn Công, thôn Dọc, xã Liên Mão, huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh. Năm 1967 tốt nghiệp cấp III. Năm 1967 - 1972 học Trường Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội, Khoa tiếng Anh. Năm 1972 - 1995 làm việc ở Viện Thiết kế máy Nông nghiệp
Hà Nội, thuộc Bộ Công nghiệp. Năm 1995 về nghỉ hưu.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con trai: -
Cao Minh Quý.
Con
gái:
- Cao Thị Phương Thảo, sinh ngày 7-
12 - 1980. Tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, Thạc sỹ Kinh tế Trường Đại học Giao
thông Vận tải Hà Nội, ở lại trường làm giảng viên Bộ môn Quản lý dự án Giao
thông Vận tải. Chồng là Bùi Ngọc Dũng quê ở Hà Nội. Sinh được 1 con trai. Gia
đình ở chung cư làng Việt kiều
châu Âu, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội.
Bà kế:
Nguyễn Thị Quỳnh Hoa
Sinh ngày:
11 - 12 - 1973 (Quý Sửu).
Bà là con gái cụ Nguyễn Ngọc Kim xã Y Can, Trấn
Yên, Yên Bái.
Ông
bà sinh được 1 con gái:
- Cao Phương Vy, sinh ngày 30 - 11 - 1999, ở
thành phố Hà Nội. Tốt nghiệp THPT năm 2017, học Trường Đại học Ngoại ngữ thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa tiếng Đức. Năm 2022 tốt nghiệp Đại học, hiện nay làm việc tại Trung tân Ngoại ngữ
Hà Nội.
13. 1.1.2 - Ông Cao Văn Tham.
Sinh
ngày: 11- 7 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng
Hoà.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Khắc Khoan.
Năm 1976 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1978 -
1982 tham gia Quân đội. Năm 1982 - 1987 học Trường Đại học Giao thông Vận tải
Hà Nội. Từ năm 1987 - 2017 làm việc ở Công ty APATIT Lào Cai: là Cử nhân Kinh tế, Phó Giám đốc Xí
nghiệp Vận tải, Phó Trưởng phòng Kế hoạch Thị trường của Công ty. Năm 2017 nghỉ
hưu. Gia đình ở SN 119, đường Đặng Thái Mai, phường Bắc Cường, thành phố Lào
Cai.
Ông tham gia biên soạn Gia phả phái tổ Cao
Đức Thiệm năm 2022.
Bà Phạm
Thị Chén.
Sinh
ngày: 13 - 12 - 1964 (Giáp Thìn).
Bà là
con gái cụ Phạm Ngọc Hiền, xã Yên Định, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tốt nghiệp
Trường cấp III thị xã Lào Cai năm 1983. Năm
1984 - 1988 học
tại Học viện TC Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Kế toán. Từ năm 1989 làm việc ở Công
ty APATIT Lào Cai, năm 2020 nghỉ
hưu.
Ông bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Đức Huy.
- Thứ hai là Cao Việt Hoàng.
13. 1.1.3 - Ông Cao Quốc Hóa.
Sinh
ngày: 5 - 3 - 1960 (Canh Tý), thôn Cộng
Hoà.
Ông
là con trai thứ ba cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1979 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã
Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1982 làm công nhân Công ty APATIT Lào Cai. Năm
1984 - 1987 học Trường Trung cấp Kinh tế Hóa chất Bắc Ninh. Năm 1987 - 2005
công tác tại Công ty APATIT Lào Cai, làm Kế toán trưởng Xí nghiệp Cơ điện thuộc
Công ty. Năm 2003 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Năm 2005 về nghỉ và mở Công ty kinh doanh vật tư điện, nước ở thành phố Lào
Cai. Gia đình ở SN 605A, đường Hoàng Liên, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai.
Bà Lê Thị Anh Đào.
Sinh ngày: 12 - 7- 1967 (Đinh Mùi).
Bà là con gái cụ Lê Xuân Diệp, huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình. Năm 1985 tốt nghiệp Trường THPT Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tỉnh
Lào Cai. Năm 1990 tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Yên Bái. Từ năm 1991
đến nghỉ hưu năm 2018, làm giáo viên THCS, xã Xuân Giao, huyện Bảo Thắng và thành
phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Ông bà sinh được 2 con trai:
-
Trưởng là Cao Việt Hùng.
- Thứ hai là Cao Thanh Tùng.
13. 1.1.4 - Ông Cao Văn Viên.
Sinh
ngày: 2 - 1 - 1966 (Ất Tỵ, 1965), thôn
Cộng Hoà.
Ông là
con trai thứ tư cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1983 tốt nghiệp Trường cấp III thị xã
Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1983 - 1987 học Đại
học Ngân hàng,
Hà Nội. Năm 1987 làm việc ở Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh
Hoàng Liên Sơn,
khi tách tỉnh về làm việc ở Ngân hàng NN&PTNT tỉnh Lào Cai. Cử nhân Ngân
hàng, Trưởng phòng Tin học, Trưởng phòng Kiểm tra, Phó Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT
Chi nhánh Cam Đường, Lào Cai. Gia đình ở SN 24, phố Lê Thị Hồng Gấm, phường Phố
Mới, Thành phố Lào Cai. Năm 2020
chuyển về nhà mới ở Tổ 21, phường Bắc Cường, Thành phố Lào Cai.
Bà Vũ Thị Thùy Linh.
Sinh ngày: 4 - 8 - 1984 (Giáp Tý).
Bà là con gái cụ Vũ Quang Minh quê gốc
ở huyện Trấn Yên, tỉnh
Yên Bái sau gia
đình chuyển đến ở thị trấn huyện Mường Khương, tỉnh Lào
Cai. Năm 2003 tốt
nghiệp Trường THPT huyện Mường Khương. Năm 2004 - 2006 học hệ Trung cấp Học viện
Ngân hàng, Phân hiệu Sơn Tây. Từ năm 2008 đến nay làm việc ở Ngân hàng
NN&PTNN thành phố Lào Cai. Tốt nghiệp Cử nhân Tài chính Ngân hàng, Học viện
Tài chính năm 2012.
Ông bà đã sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: -
Cao Kỳ Long.
Con
gái: - Cao Ngân Hà.
13. 1.1.5 - Ông Cao Quốc Trinh.
Sinh ngày:
2 - 9 - 1967 (Đinh Mùi), thôn Xuân Tăng (nay là phường Xuân Tăng), thành
phố Lào Cai.
Ông là
con trai thứ năm cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1986 tốt nghiệp
Trường THPT thị
xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai. Năm 1986 - 1989 tham gia Quân đội. Năm 1993 - 1996,
học Trường Trung cấp Kế toán - Tài chính Hưng Yên. Năm 1996 - 2019 làm việc ở
Công ty Xây dựng Công trình Giao thông 829. Từ năm 2019 đến nay làm ở Công ty
CP, Tổng Công ty Liên doanh XDCT 18. Gia đình ở nhà CT4, Khu đô thị Mỹ Đình, đường
Mễ Trì, Tổ 1, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
Bà Mai Ngọc Dung.
Sinh
ngày: 25 - 1 - 1977 (Bính Thìn, 1976).
Bà là
con gái cụ Mai Xuân Điệp, phường Đồng Tâm, Q. Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
Năm 1995 tốt nghiệp Trường THPT Đoàn Kết. Năm 1995 - 1999 học Trường ĐHTM Hà Nội,
bằng Cử nhân QTKD. Năm 2002 tốt nghiệp văn bằng 2 Tài chính Kế toán, Trường ĐHTM.
Từ năm 2003 đến nay đã làm việc ở các đơn vị: Xí nghiệp Xây dựng Số 2, Tổng
Công ty Đầu tư & Phát triển nhà Hà Nội; Công ty Tài chính CP HANDICO; Ban Đầu
tư và Xây dựng hạ tầng Kỹ thuật chung, Làng VH - DL các Dân tộc Việt Nam.
13. 1.1.6 - Ông Cao Đăng Rung.
Sinh ngày: 19 - 5 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Đăng
Rong. Năm 1974 tốt nghiệp Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm
1974 - 1977 học Trường Trung cấp Y Bắc Thái. Năm 1977 - 1979 công tác ở Phân viện
Sốt rét - Ký sinh trùng Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1979 - 1980 công
tác tại Sở Y tế tỉnh Thái Nguyên. Năm 1980 - 1985 vào Quân đội ở Ban Quân y, Trường
Hậu cần Quân khu I, cấp bậc Thượng sỹ. Năm 1985 - 1993 công tác ở Sở Y tế tỉnh
Thái Nguyên. Năm 1992 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế Lao động, Trường Đại học Công
Đoàn. Gia đình ở phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên. Năm 1993 - 2017 chuyển
vào làm việc ở Liên doanh dầu khí VIETSOPETRO
là Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao. Gia đình ở SN 182- 1A đường Nguyễn Hữu
Cảnh, thành phố Vũng Tàu.
Bà Phùng Thị Dư.
Sinh ngày:
10 - 9 - 1957 (Đinh Dậu).
Bà là con gái cụ Phùng Văn Nhâm, thị trấn Chợ
Rã, tỉnh Bắc Kạn. Năm 1974 tốt nghiệp cấp III. Năm 1974 - 1977 học Trường Trung
cấp Y Bắc Thái. Năm 1977 - 1997 làm việc ở Trung tâm Y tế thành phố Thái
Nguyên. Từ năm 1997 đến khi nghỉ hưu năm 2012 làm việc ở Trung tâm chăm sóc Sức
khỏe và Sinh sản, Sở Y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ông bà sinh được: 1 con trai và
1 con gái.
Con
trai: - Cao Quang
Hưng.
Con gái:
- Cao Thị Thu Hằng, sinh ngày 13 - 9 -
1988. Tốt nghiệp THPT năm 2006. Học Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, ngành Bảo hiểm. Làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Chồng là Đoàn Hồng
Sơn, con ông Đoàn Ngọc Kỳ, huyện Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương.
13. 1.1.7 - Ông Cao Đăng Phong.
Sinh ngày:
14 - 7 - 1963 (Quý Mão), Bệnh viện
Gang Thép, thành
phố Thái Nguyên.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Đăng Rong, còn có tên là Đại Tống. Năm 1980 tốt nghiệp
Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm 1982 vào Quân đội, học Trường
Sỹ quan chỉ huy Thông tin, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1985 ra trường
công tác ở BCH Quân sự đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu). Từng giữ các chức vụ: Trung úy Trung đội trưởng Thông tin, Thượng úy Trợ
lý Thông tin, Quận đội Côn Đảo, thuộc BCH Quân sự đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Từ
năm 1989 đến nay chuyển ngành làm việc tại Trung tâm Công nghệ Thông tin và Liên
lạc, Liên doanh Dầu khí VIETSOPETRO. Gia đình ở D2- Lê Thị Riềng, thành phố Vũng
Tàu.
Bà Lưu Thị Tho.
Sinh ngày:
8 - 10 - 1976 (Bính Thìn).
Bà là con gái cụ Lưu Công Triều, quê gốc xã
Giao Yến, nay gia đình ở thành phố Vũng Tàu. Làm việc tại Công ty may mặc gia
đình cùng với bố mẹ đẻ và nội trợ gia đình.
Ông bà
sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thu Huệ, sinh
ngày 30 - 4 - 2000. Tốt nghiệp THPT năm 2018, học Trường Đại học Giao thông Vận
tải ở thành phố Hồ Chí Minh và Hàn Quốc.
- Thứ hai là Cao Thị Thanh Mai, sinh
ngày 11- 2 - 2004.
13. 1.1.8 - Ông Cao Kinh Thao.
Sinh ngày:
7 - 1 - 1966 (Ất Tỵ, 1965), Bệnh
viện Gang Thép, thành phố Thái Nguyên.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Đăng Rong. Năm
1983 tốt nghiệp Trường cấp III Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Năm 1983 -
1986 học Trường Sỹ quan chỉ huy Thông tin, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1986 - 1989 ở Mặt trận 479 Campuchia. Năm 1989 - 1995 công tác ở F 302,
Quân khu 7, cấp bậc Đại úy. Năm 1995 - 2000 ra quân, đi học Trường Đại học Kỹ
thuật Công nghệ, thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2005 đến nay là Kỹ sư Điện tử -
Viễn thông, làm việc ở Trung tâm Công nghệ Thông tin và Liên lạc Liên doanh dầu
khí VIETSOPETRO. Gia đình ở
SN 188 Nguyễn Hữu
Cảnh, thành phố Vũng Tàu.
Bà Lê Thị Hồng.
Sinh ngày:
9 - 12 - 1973 (Quý Sửu), xã Hoà Lâm.
Bà là con gái cụ Lê Văn An, xã Hòa Lâm, huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội. Năm 1996 - 1997 học ở Trung tâm Bưu chính Viễn thông 2.
Từ năm 1998 đến nay làm việc ở Bưu điện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Thủy Tiên, sinh
ngày 9 - 12 - 2004.
- Thứ hai là Cao Tường Vy, sinh ngày 29
- 10 - 2007.
13. 1.1.9 - Ông Cao Bình Định.
Sinh
ngày: 4 - 4 - 1971 (Tân Hợi), Thác Bà,
huyện Yên Bình.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Quốc Hữu.
Năm 1987 tốt nghiệp Trường THPT Nguyễn Huệ, thị xã Yên Bái (nay là Thành phố Yên
Bái). Năm 1989 - 1991 học Trường Công nhân Cơ Điện, Bộ Thuỷ lợi ở Vĩnh Phúc.
Năm 1991 - 1999 làm việc ở Nhà máy Cán thép Lưu Xá, Công ty Gang Thép Thái
Nguyên và học Trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên. Từ năm 1999 làm việc ở
Công ty Điện lực tỉnh Yên Bái: Kỹ sư Điện, Trưởng Chi nhánh Điện lực huyện Lục
Yên, Trưởng phòng Kinh doanh Điện năng, Phó Giám đốc Công ty. Từ năm 2021 là
Giám đốc công ty Điện lực tỉnh Yên Bái. Gia đình ở đường Quang Trung, thành phố
Yên Bái.
Bà Trương Thị Phúc.
Sinh ngày: 31- 1- 1977 (Bính Thìn).
Bà là con gái cụ Trương Văn Tiến, thành phố Yên
Bái. Năm 1994 tốt nghiệp Trường THPT, thị xã Yên Bái. Học Trường ĐHTCKT Hà Nội.
Năm 1998 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, ngành Kế toán. Từ năm 1999 đến nay làm việc
ở: Bưu điện tỉnh Yên Bái, Công ty Điện lực tỉnh Yên Bái.
Ông bà
sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Trần Quyết.
- Thứ hai là Cao Minh Thắng.
13. 1.1.10 - Ông Cao Bình Cung.
Sinh
ngày: 5 - 1 - 1980 (Kỷ Mùi, 1979), thị
xã Yên Bái.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Quốc Hữu. Năm 1998 tốt nghiệp
Trường THPT Nguyễn
Huệ, thị xã Yên Bái (nay Thành phố Yên Bái). Năm 1998 - 2007 học Trường ĐHGTVT Hà
Nội, Khoa Kinh tế, sau lại học tiếp văn bằng 2 Khoa Cầu đường. Là Kỹ sư Cầu đường
và Cử nhân Kinh tế. Từ năm 2007 đến nay công tác ở Sở Giao thông Vận tải tỉnh
Yên Bái: Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư Giao thông, Trưởng phòng Quản lý
Chất lượng, Trưởng phòng Kế hoạch.
Bà Lương Thanh Nga.
Sinh ngày: 11 - 10 - 1985 (Ất Sửu).
Bà là con gái cụ Lương Văn Phòng quê ở huyện Lục Yên, Yên Bái. Năm 2007 tốt
nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội. Công tác Trường THPT Số I Văn Bàn, tỉnh Lào Cai;
Trung tâm VH - TT huyện Lục Yên; Phó Văn phòng Huyện ủy Lục Yên; Phó Văn phòng
Ban Tổ chức Tỉnh ủy Yên Bái, Phó Trưởng phòng Tổ chức cán bộ.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: - Cao Đức Minh.
Con
gái: - Cao Minh Hương, sinh ngày 20 - 1 - 2016.
13. 1.1.11 - Ông Cao Quang Khải.
Sinh
ngày: 23 - 1 - 1976 (23 - 12 năm Ất
Mão, 1975). Bệnh viện Gang Thép, thành
phố Thái Nguyện.
Ông là con trai cụ Cao Quốc Sủng, còn có
tên là Kinh Vũ. Năm 1993 tốt nghiệp Trường THPT Gang Thép, Thái Nguyên, học Cao
đẳng Luyện kim Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1997 làm việc ở Trường Cao
đẳng Cơ khí - Luyện kim Thái Nguyên, học tiếp đại học, tốt nghiệp Kỹ sư Luyện
kim. Năm 2001 - 2004 làm việc tại Công ty Cổ phần Xây lắp Số 7 (COMA 7), Thanh
Trì, Hà Nội. Từ năm 2004 làm việc ở Trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội:
Chuyên viên chính, Phó Trưởng phòng Dự án, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm định Thiết
bị nâng hạ. Bằng 2 Cử nhân Quản lý Hành chính, Học viện HCQG Hà Nội. Thạc sỹ
QTKD, Trường Đại học Thuỷ lợi Hà Nội. Gia đình ở Căn hộ 602, nhà CT5,
phố Trần Văn Lai, đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Thành phố
Hà Nội.
Ông nhận Cao Hoàng Long con trai của chị
gái làm kế tự.
Bà Quách
Thị Xuân Thu.
Sinh ngày: 23 - 3 - 1979 (Kỷ Mùi), Thanh Trì, Hà Nội.
Bà là con gái cụ Quách Tất Hiến, xã An Lạc,
huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Năm 1996 - 2000 học Trường Đại học Tài chính Kế
toán Hà Nội. Từ năm 2001 Cử nhân Tài chính
Kế toán, làm việc ở các đơn vị: Công ty Cổ phần Xây lắp Số 7 (COMA 7),
Thanh Trì, Hà Nội; Phó phòng Kế toán Công ty Cổ phần chứng khoán An Bình, Đống
Đa, Hà Nội; Kế toán trưởng Công ty Chứng khoán KSF, Tập đoàn SUNHINE, Hà Nội.
Ông
bà sinh được 2 con gái:
Kế tự: - Cao
Hoàng Long.
Hai con gái:
- Thứ nhất là
Cao Thiên An, sinh ngày 9 - 10 - 2010.
- Thứ hai là Cao Xuân Anh, sinh ngày
21 - 3 - 2015.
13. 1.2.12 - Ông Cao Xuân Thiện.
Sinh
ngày: 18 - 9 - 1957 (Đinh Dậu), thôn Cộng
Hoà.
Ông là con trai cụ Cao Ngọc Cờn, còn có
tên là Xuân Kiệm. Năm 1976 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy, sau đó tham
gia Quân đội. Năm 1980 - 1985 học Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học
viện KTQS), ngành Tên lửa Phòng không, ở lại trường làm giáo viên Bộ môn Kỹ thuật
Điện. Năm 1995 - 1998 học Cao học ngành Tự động hóa và Điều khiển từ xa tại Học
viện KTQS. Bằng Thạc sỹ, Giảng viên chính, cấp bậc Đại tá, từng giữ chức vụ Phó
Trưởng Trung tâm Tên lửa và Kỹ thuật điều khiển. Được khen thưởng: Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huy chương Quân kỳ quyết
thắng; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhất, Nhì, Ba; Kỷ niệm chương vì sự
nghiệp Giáo dục Đào tạo; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp KH&CN; Huy hiệu 40 năm
tuổi Đảng. Nhà ở Phòng 107, tập thể HVKTQS, Ngõ 100B, đường Hoàng Quốc Việt, Thành
phố Hà Nội. Năm 2016 nghỉ hưu, năm 2019 gia đình chuyển vào ở 21/4 Kha Vạng
Cân, Phường 7, thành phố Vũng Tàu.
Từ năm 2010 tham gia Thường trực Chi nhánh
họ Cao Trần tại Hà Nội. Từ năm 2012 là UVTT Ban liên lạc dòng họ Trần Nguyên
Hãn Việt
Nam. Năm 2015 -
2016 làm Thủ quỹ Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng.
Ông tham gia biên soạn Gia phả họ Cao Trần
năm 2018, Gia phả phái tổ Cao Đức Thiệm năm 2009, 2022.
Bà Vũ Thị Đan.
Sinh
ngày: 3 - 9 - 1960 (Canh Tý), thôn Cộng
Hoà.
Bà là
con gái cụ Vũ Lê Minh, thôn Cộng Hòa. Năm 1979 - 1981 học
Trường Trung cấp
Tòa án Bình Triệu, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990 tốt nghiệp Trường Đại học
KTQD. Năm1998 tốt nghiệp Trường Đại học Luật Hà Nội. Từ năm 1982 công tác ở Tòa
án Nhân dân huyện Giao Thủy,
giữ các chức vụ:
Thẩm phán năm 1999, Phó Chánh án từ năm 2004 đến
nghỉ hưu năm
2011. Năm 2019 chuyển vào ở thành phố Vũng Tàu.
Được khen thưởng: Chiến sỹ Thi đua ngành
TAND; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Tòa án; Kỷ niệm chương vì sự Tiến bộ của Phụ
nữ; Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng.
Ông
bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Ngọc
Khánh.
- Thứ hai là Cao Ngọc
Khương.
13. 1.2.13 - Ông Cao Văn Chiến.
Sinh
ngày: 16 - 10 - 1965 (Ất Tỵ), xã Giao
Lạc.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Chi Thừng.
Năm 1983 tốt nghiệp Trường cấp III huyện Giao Thủy. Năm 1985 - 1989 tham gia
Quân đội và học Trường Sỹ quan Hải quân, ngành Hoa tiêu. Từng giữ các chức vụ:
Phó Thuyền trưởng, Thuyền trưởng, Hải đội trưởng của Lữ đoàn 172 Vùng 3 Hải
quân. Năm 2002 - 2004 học sau đại học tại Học viện Hải quân. Từ năm 2008 - 2010
công tác ở Phòng Tác chiến, Bộ Tham mưu Quân chủng Hải quân. Năm 2010 - 2017 Lữ
đoàn phó Lữ đoàn 161, Vùng 3 Hải quân. Năm 2017 Chi đội trưởng Chi đội Kiểm ngư
Số 3, Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân, cấp bậc Đại tá. Năm 2019 được bổ nhiệm Phó
Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Thương binh 4/4. Khen thưởng: Huân
chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng: Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng. Huy
hiệu 30 năm tuổi Đảng.
Gia đình ở SN 90, đường Trần Quang Khải,
phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Bà Nguyễn Thị Vân.
Sinh
năm: Quý Sửu (1973), huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình.
Bà là con gái cụ Nguyễn Văn Tiến, xã
An Bồi, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Từ năm 1991 làm ở Xí nghiệp da dầy Đà
Nẵng. Năm 2001 được tuyển dụng làm CNV Quốc phòng ở Ban hành chính, Vùng 3 Hải
quân. Năm 2012 chuyển sang hưởng chế độ QNCN, cấp bậc Thượng uý. Năm 2018 được
lên quân hàm Đại uý, nhân viên hộ lý Trạm xá Phòng Hậu cần, Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải
quân. Năm 2022 về nghỉ hưu tại Đà Nẵng.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con
gái.
Con trai: - Cao Minh Hoàng.
Con
gái:
- Cao Thu Quyên, sinh ngày 23 - 9 - 1996. Năm
2014 tốt nghiệp trường THPT Phan Chu
Trinh, Đà Nẵng và học Trường Đại học Khoa học và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Năm 2018 tốt nghiệp loại giỏi, Ngành Báo chí. Năm
2017 - 2019 học và tốt nghiệp văn bằng 2 tiếng Anh, Trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2020 nhập ngũ, cấp bậc Thiếu uý
QNCN, làm việc ở Nhà Văn hoá Vùng 3 Hải quân tại thành phố Đà Nẵng.
13. 1.2.14 - Ông Cao Văn Thắng.
Sinh
ngày: 2 - 8 - 1968 (Mậu Thân), xã Giao
Lạc.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Chi Thừng. Từ năm 1983 nghề chính là thợ xây dựng. Năm
1993 - 2017 là Đội trưởng thi công của Công ty TNHH Xây dựng, Cao Bằng. Từ năm
2018 đến nay ông lập một Đội thợ xây dựng tư nhân tại huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
Bà Đỗ Thị Thúy.
Sinh
năm: Quý Sửu (1973).
Bà là
con gái cụ Đỗ Văn Lương, xã Giao Lạc. Làm nghề buôn bán hàng may mặc ở quê đến
năm 2018. Từ năm 2019 đến nay chuyển lên Cao Bằng cùng chồng làm nghề xây dựng.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con
gái.
Con trai: - Cao Văn Dũng.
Con gái:
- Cao Thị Duyên, sinh ngày 19
- 10 - 1996. Năm 2014, tốt nghiệp trường THPT Giao Thủy C và học Trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội. Năm 2018 ra trường là Cử nhân Kế toán, Tài
chính.
13. 1.2.15 - Ông Cao Văn Điện.
Sinh ngày: 19 - 8 - 1971 (Tân Hợi), xã Giao Lạc.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Chi Thừng.
Từ năm 1986 nghề chính
là thợ xây dựng.
Năm 1993 - 2019 làm công nhân xây dựng của Công ty TNHH Xây dựng ở tỉnh Cao Bằng.
Từ năm 2020 trở về quê tiếp tục làm nghề thợ xây dựng và làm nông nghiệp.
Bà Trần Thị Lý.
Sinh
năm: Quý Hợi (1983), xã Hồng Thuận.
Bà là
con gái cụ Trần Văn Chính, Xóm 15, xã Hồng Thuận. Làm nghề thợ may và làm nông
nghiệp.
Ông bà sinh được 3 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ánh Quỳnh,
sinh ngày 22- 10 - 2006.
- Thứ hai là Cao Thị Quỳnh Anh, sinh ngày 27- 11 - 2008.
- Thứ ba là Cao Thị Trà My, sinh ngày
23 - 10 - 2014.
13. 1.2.16 - Ông Cao Văn Biên.
Sinh
ngày: 18 - 8 - 1976 (Bính Thìn), xã
Giao Lạc.
Ông là
con trai thứ tư cụ Cao Chi Thừng. Từ năm 1998 - 2019 làm
công nhân xây dựng
của Công ty TNHH Xây dựng ở tỉnh Cao Bằng. Từ năm 2020 trở về quê làm nông nghiệp.
Bà Phạm Thị Hương.
Sinh
năm: Quý Sửu (1973).
Bà là con gái cụ Phạm Văn Hậu, Xóm 9,
xã Giao Lạc. Là cô giáo dậy ở Trường Mầm non, xã Giao Lạc. Khen thưởng: Kỷ niệm
chương vì sự nghiệp Giáo dục.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: - Cao Minh Phước.
Con
gái: - Cao Thị Thùy Dung, sinh ngày 3 - 11 - 2005.
13. 1.2.17 - Ông Cao Anh Hào.
Sinh
ngày: 24 - 12 - 1979 (Kỷ Mùi), thị xã
Nghĩa Lộ, Yên Bái.
Ông
là con trai cụ Cao Xuân Thế. Năm 1997 tốt nghiệp THPT. Năm 1997 - 2002 học Trường
Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội. Năm 2002 tốt nghiệp Kỹ sư Mỏ, làm việc ở Tổng
Công ty Than tại Hà Nội. Năm 2004 làm việc ở Sở Công nghiệp tỉnh Lào Cai. Năm
2005 làm việc ở Mỏ đồng Sin Quyền, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, là Kỹ sư Khai
thác mỏ, Trưởng phòng Kỹ thuật và kiêm Trưởng phòng Dự án. Năm 2011 - 2015 làm
Phó Giám đốc Mỏ vàng Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Năm 2016 đến 2020
là Phó Trưởng phòng Kế hoạch Giá thành, từ năm 2021 đến nay là Trưởng phòng Mỏ
- Địa chất, Tổng Công ty Khoáng sản, Tập đoàn TKS Việt Nam tại Hà Nội. Năm 2016
- 2017 học và lấy bằng Thạc sỹ chuyên nghành Khai thác mỏ, Trường Đại học Mỏ Địa
chất Hà Nội. Học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Quản lý Kinh tế. Tốt nghiệp Cao cấp
lý luận Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Gia đình ở khu chung cư Hồ Gươm Plaza số 102,
đường Trần Phú, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Bà Vũ Liên Phượng.
Sinh
năm: Nhâm Tuất (1982).
Bà là
con gái cụ Vũ Văn Chiến, xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định. Từ năm
2002 - 2016 làm việc ở Mỏ đồng Sin Quyền, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Từ năm
2017 đến nay làm việc ở Chi nhánh Công ty CP Quốc tế SAMNECS, quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội.
Ông bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng
là Cao Vũ Lâm Giang.
- Thứ hai là
Cao Vũ Hoàng Bách.
13. 1.2.18 - Ông Cao Ngọc Chinh.
Sinh ngày:
7 - 6 - 1975 (Ất Mão), thôn Cộng Hoà.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Tộ. Trước
làm nghề thợ mộc, sau chuyển sang làm nghề kim hoàn. Năm 1992 lên tỉnh Cao Bằng
làm việc cho Công ty Vàng bạc bạc Kim Tín. Năm 2011 mở Doanh nghiệp Vàng bạc Nhinh
Chinh ở thành phố Cao Bằng. Năm 2018 thành lập Công ty Vàng bạc Nhinh Chinh.
Văn phòng Công ty, cửa hàng và nhà riêng ở Số 003 phố Xuân Trường, phường Hợp
Giang, thành phố Cao Bằng.
Bà Vũ Thị Nhinh.
Sinh năm:
10 - 2 - 1980 (Canh Thân), thôn Quyết Tiến.
Bà là con gái cụ Vũ Văn Độ, thôn Quyết Tiến.
Làm nghề thợ may, năm 2002 - 2007 làm ở
Malayxia, nay kinh doanh vàng bạc Thành phố Cao Bằng.
Ông bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Trần Ngọc.
- Thứ hai là Cao Trần Bảo An.
13. 1.2.19 - Ông Cao Văn Nhàn.
Sinh
ngày: 11- 2 - 1979 (Kỷ Mùi), thôn Cộng
Hoà.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Văn Tộ. Làm thợ kim hoàn, đã từng
làm cho các
doanh nghiệp vàng Kim Tín ở tỉnh Cao Bằng, Ngọc Hà ở quê. Hiện nay làm cho hiệu
vàng Quang Thắng, huyện Giao Thủy.
Bà Hoàng Thị Nhung.
Sinh
ngày: 1 - 2 - 1980 (Canh Thân), thôn Cộng
Hoà.
Bà là
con gái cụ Hoàng Văn Mai, thôn Cộng Hòa. Làm nông nghiệp và buôn bán nhỏ ở quê.
Từ năm 2019 làm việc cho Công ty EOC Việt Nam, Chi nhánh tại huyện Xuân Trường.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con
trai: - Cao Trường
Sơn.
Con gái:
- Cao Thị Bảo Vy, sinh ngày 5 - 7 - 2010.
13. 1.3.20 - Ông Cao Hải Long.
Sinh
ngày: 25 - 4 - 1980 (Canh Thân), Nông
trường chè Liên Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Ông là
con trai cụ Cao Bàng Đức. Là Kỹ sư Điện, công tác ở Văn phòng Tỉnh ủy Lào Cai.
Gia đình ở Tổ 8, phường Bắc Lệnh, Thành phố Lào Cai.
Bà Nguyễn
Hạnh Nguyệt (đã ly hôn).
Sinh năm: 1980,
xã Bình Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai:
- Cao Thanh Lâm.
Con
gái: - Cao Thị Thanh Trúc.
Bà hai Đặng Thị Giang
Sinh ngày:
2 - 11 - 1995 (Ất Hợi), huyện Mường Khương, Lào Cai.
Bà là con gái cụ Đặng Văn Tiền, xã Vũ
Đông, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Ông
bà sinh được 1 con trai: - Cao Nam Phong.
13. 1.3.21 - Ông Cao Văn Thành.
Sinh
ngày: 4 - 1 - 1985 (Giáp Tý, 1984), xã
Bản Qua, Bát Xát.
Ông là
con trai cụ Cao Trọng Đạt. Là Kỹ sư Điện, hiện đang kinh doanh công trình xây dựng
ở tỉnh Lào Cai. Gia đình ở Tổ 2, thị trấn Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Bà Lê Thị Huyền
Sinh ngày: 14 tháng Giêng năm Ất Sửu, tức ngày: 03 - 02 - 1985.
Bà là con cụ Lê Hoài Thanh ở Khu 9,
thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Học Đại học Sư phạm, là giáo
viên Trường Tiểu học Lê Văn Tám, thành phố Lào Cai.
Ông bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Trường Giang.
- Thứ
hai là Cao Hiển Vinh.
13. 1.3.22 - Ông Cao Văn Hưng.
Sinh
ngày: 3 - 7 - 1991 (Tân Mùi), xã Bản
Qua, Bát Xát.
Ông là
con trai cụ Cao Kỳ Lân. Tốt nghiệp Cao đẳng Dược năm 2013. Ở cùng với gia đình
tại xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Bà Trần Thị Liên
Sinh ngày:
9 - 9 - 1992 (Nhâm Thân).
Bà là con gái cụ Trần A Hỷ, thôn Mận Chón 2,
xã Cốc Mỳ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Ông bà sinh được 1 con trai: - Cao
Phúc Nguyên.
13. 1.3.23 - Ông Cao Quang Trung.
Sinh
ngày: 16 - 12 - 1994 (Giáp Tuất), xã Bản
Qua, Bát Xát.
Ông là
con trai cụ Cao Hoài Ngọc. Ở cùng gia đình tại xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai.
13. 1.3.24 - Ông Cao Duy.
Sinh ngày: 3 - 1 - 1996 (Ất Hợi, 1995), xã Mương Mán.
Ông là con trai cụ Cao Khắc Việt. Năm 2014
tốt nghiệp Trường phổ
thông Trung học
Hàm Thuận Nam, học Cao đẳng Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh. Năm
2017 học tiếp liên thông Đại học ngành Điện lực, Trường Đại học Bách khoa thành
phố Hồ Chí Minh.
13. 1.4.25 - Ông Cao Văn Thục.
Sinh
năm: Kỷ Hợi (1959), thôn Việt Dũng.
Ông là con trai cụ Cao Văn Quy. Năm 1977 tham
gia Quân đội. Năm 1979 -
1981 đi học nghiệp vụ xăng dầu của Tổng cục Hậu cần sau đó vào
làm việc ở Tân cảng Cát Lái, thành phố
Hồ Chí Minh. Năm 1981 xuất ngũ về quê, tham gia một số công tác ở địa phương:
Xóm, Đội trưởng 10 Quyết Tiến (nay là Xóm, Đội 4 Giao Tiến); Là Ủy viên HĐND xã
Giao Tiến các nhiệm kì 2011-2016, 2016-2021, 2021-2026.
Bà Vũ
Thị Xương
Sinh năm: Mậu Tuất (1958), thôn Việt Dũng.
Bà là con gái cụ Vũ Văn Cương, thôn
Việt Dũng. Làm nông nghiệp
và buôn bán nhỏ ở quê.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con
gái.
Con trai: - Cao Quang Anh.
Con gái: - Cao Thị
Ngọc Anh, sinh năm 1981. Chồng là Trần Văn Thọ ở Hùng Tiến. Sinh được 2 con
trai.
13. 1.4.26 - Ông Cao Văn Dũng.
Sinh
ngày: 24 - 9 - 1989 (Kỷ Tỵ), xã Bạch
Long.
Ông là
con trai trưởng cụ Cao Văn Minh. Năm 2007 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B. Năm 2010
- 2013 học Trường CĐ Công nghiệp Hà Nội. Năm 2014 - 2016 học Trường CĐ nghề, Bộ
NN&PTNT, Hà Nội chuyên ngành Sửa chữa ô tô. Từ năm 2017 đến nay làm việc tại
Doanh nghiệp Muối iốt Thường Liên, xã Bạch Long.
Bà Trần Thị Tâm.
Sinh ngày: 20 - 2 - 1994 (Giáp Tuất).
Bà là con gái cụ Trần Văn Trung, Xóm
4, xã Giao Tân. Năm 2012 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B, học và làm nghề may ở tỉnh
Quảng Ninh. Năm 2018 lập gia đình và làm ăn ở quê chồng xã Bạch Long.
Ông bà đã có 1 con gái: - Cao
Tuệ Nhi, sinh ngày 13 - 6 - 2020.
13. 1.4.27 - Ông Cao Văn Sỹ.
Sinh
ngày: 2- 5 - 1992 (Nhâm Thân), xã Bạch
Long.
Ông là
con trai thứ hai cụ Cao Văn Minh. Năm 2010 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B. Năm
2010 - 2015 học Trường ĐHGTVT Hà Nội, Khoa
Cầu đường bộ, tốt nghiệp Kỹ sư Cầu đường. Năm 2015 - 2018 làm việc tại Công ty TNHH
Đông Mê Công, quận Nhà Bè, Thành phố HCM. Từ năm 2019 làm việc cho doanh nghiệp
CADIAN Việt Nam, Thành phố HCM.
Bà Nguyễn
Thị Thu Hà.
Sinh
ngày: 15 - 7 - 1992 (Nhâm Thân).
Bà là
con gái cụ Nguyễn Văn Hải, xã Việt Hồng, huyện Trực Ninh. Học ở xã Bạch Long từ
nhỏ, năm 2010 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ B, năm 2010 - 2014 học Trường ĐHNT Hà Nội,
Khoa tiếng Anh. Từ năm 2015 làm việc cho Công ty VINABAT Việt Nam, Chi nhánh Thành
phố HCM.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: - Cao Hoàng Nguyên
Con gái: - Cao Nguyên An, sinh ngày 21 - 12 - 2018.
B - CHI THỨ HAI
13. 2.2.28 - Ông Cao Trung Hiếu.
Sinh năm: Giáp
Thìn (1964).
Ông là con trai trưởng cụ Cao Trung Chính, làm nhân viên
kinh doanh nhà hàng, đường Đồng Khởi, thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình ở ở SN 53,
Đường 25, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bà
Đặng Thị Tuyết Anh.
Sinh năm: Bính
Ngọ (1966).
Bà quê ở Phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Bà làm
nội trợ và buôn bán nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ông bà sinh được 1 con trai :
- Cao Đặng Bảo
Châu.
13. 2.2.29 - Cao Công huý Thành Đức.
Sinh năm :
Bính Ngọ (1966).
Mất ngày: 23 - 6
năm Bính Dần (1986), hưởng 21 tuổi.
Mộ ở nghĩa trang Liệt sỹ quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Chính. Nhập ngũ năm
1984, liệt sỹ, hy sinh ở chiến trường Campuchia năm 1986.
13. 2.2.30 - Ông Cao Minh Phú.
Sinh năm :
Mậu Thân (1968).
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Trung
Chính.
Nghề nghiệp làm công. Gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh.
Bà ... (không rõ họ
tên).
Bà là người ở tỉnh
Quảng Nam.
13. 2.2.31 - Ông Cao Thế Minh.
Sinh
năm : Canh Tuất (1970).
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Trung
Chính. Làm chủ cơ sở may mặc ở hẻm Dương Bát Trạc, Phường 2, Quận 8, thành phố Hồ
Chí Minh.
Bà Phan Thị Vân Anh.
Bà làm nghề
may mặc cùng gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ông bà sinh được:
1 con trai và 1 con gái.
Con trai: - Cao Thế Khang.
Con gái: - Cao
Kim Ngọc, sinh năm 2000.
13. 2.2.32 - Ông Cao Trọng Tuấn.
Sinh năm: Nhâm
Tý (1972).
Là con trai thứ năm cụ Cao Trung Chính. Nghề nghiệp làm
công.
Gia đình
ở thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Đặng
Thị Kim Thanh.
Ông bà sinh được
1 con trai: - Cao Đặng Kim Hoàng.
13. 2.2.33 - Ông Cao Trần Hải.
Sinh năm: Giáp Dần
(1974).
Ông là con trai thứ sáu cụ Cao Trung
Chính. Nghề nghiệp làm công. Gia đình ở SN 53, Đường 25, phường Tân Quy, Quận
7, Thành phố HCM.
Bà ... (đã ly hôn). Ông bà
sinh được 1 con gái:
- Cao
Bảo Trân, sinh năm 1995. Chồng là Nguyễn Việt Tuấn, quê ở thành phố Hải Phòng.
Bà
hai: Võ Thị...
Ông bà sinh được 1 con trai: - Cao Võ Hải Trường.
13. 2.2.34 - Ông Cao Thành Long.
Sinh năm: Đinh Tỵ
(1977).
Ông là con trai thứ bảy cụ Cao Trung
Chính.
Nghề nghiệp làm công. Hiện nay ở thành
phố Hồ Chí Minh.
13. 2.2.35 - Ông Cao Đình Trang.
Sinh
ngày: 13 -12 - 1986 (Bính Dần), thành phố Nam Định.
Ông là
con trai cụ Cao Văn Trọng. Tốt nghiệp THPT, năm 2006 -
2011 học Trường
Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Là Kỹ sư Công nghệ Thông tin, làm việc ở Công ty
Cổ phần đầu tư Lạc Hồng ở Thành phố Hà Nội.
Gia đình ở Số nhà 24C, Ngõ 178, phố
Quan Nhân, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Bà Lê Thị Ánh Tuyết.
Sinh ngày: 11 -
12 - 1993 (Quý Dậu).
Là con
gái cụ Lê Văn Hán, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Học Trường
Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Khoa tiếng Anh - Đức, tốt nghiệp
năm 2015. Hiện nay làm việc tại Công ty Du học Đức Albert Einstein Hà Nội.
- Sinh con trai: Cao Quang Minh 14 - 07 - 2022.
13. 2.2.36 - Ông Cao Quang Anh.
Sinh
ngày: 23 - 2
- 2001 (Tân Tỵ), thành phố Hồ Chí Minh.
Ông là
con trai cụ Cao Văn Tôn, học Trường Đại học Tôn Đức Thắng, thành phố Hồ Chí
Minh, ngành Quản trị Kinh doanh Du lịch.
13. 2.2.37 - Ông Cao Hoàng Anh.
Sinh
ngày: 20 - 7 - 1993 (Quý Dậu), thành phố Hà Nội.
Ông là
con trai trưởng cụ Cao Văn Kính. Học Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải
Hà Nội. Ra trường năm 2011, làm việc ở Công ty Cổ phần Xây dựng và Lắp máy xây
dựng Hà Nội. Nhà ở Số 8, Dẫy G, tổ dân phố Số 6, phường Trung Văn, quận Nam Từ
Liêm, Thành phố Hà Nội.
Bà Lưu
Hương Giang.
Sinh
ngày: 5 - 11 - 1997 (Đinh Sửu).
Là con
gái cụ Lưu Văn Trong, xã Kim Chung, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Học Trường Đại
học Kiến trúc Hà Nội, tốt nghiệp năm 2021. Hiện nay làm việc ở Siêu thị OKONO tại
Thành phố Hà Nội.
Ông bà đã sinh được 1 con gái:
- Cao Minh Châu, sinh ngày 10 - 2 -
2022, Thành phố Hà Nội.
13. 2.2.38 - Ông Cao Hoàng Sơn.
Sinh ngày: 14 - 6 - 2003 (Quý Mùi), thành phố Hà Nội.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn
Kính. Học Cao đẳng nghề Điện lạnh,
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
13.
2.4.39 - Ông Cao Trung Kiên.
Sinh ngày: 22- 11 - 1993 (Quý Dậu), xã Giao Thiện.
Ông là con trai cụ Cao Quốc Đạt. Năm 2011
- 2014 học Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội. Năm 2014 ra trường, hiện nay làm
nghề tự do
sửa chữa xe máy
tại thành phố Nam Định.
Bà Vũ Thị Diệu Anh
Sinh ngày:
08 - 8 - 1994 (Giáp Tuất).
Bà là con gái cụ Vũ Văn Quyền ở SN 30, đường
Thái Bình, phường Trần Tế Xương, thành phố Nam Định. Học Trường Đại học Điều dưỡng
Nam Định, tốt nghiệp năm 2015. Hiện nay làm việc ở tại Công ty Cổ phần may Sông
Hồng, thành phố Nam Định.
13. 2.4.40 - Ông Cao Văn Suất.
Sinh ngày: 8 - 1
- 1999 (Mậu Dần 1998), xã Buôn Triết, huyện Lắk.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Văn Sơn. Học
xong THPT năm 2015
ông xuất gia đầu
Phật, học Trường Trung cấp Phật học tại chùa Bảo Quốc, thành phố Huế. Tháng 6 -
2018, ông được thụ phong Tỳ Kheo, pháp danh là Tuệ Pháp. Hiện đang tu tại chùa
Thanh Hoà, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
13.
2.4.41 - Ông Cao Văn Sắc.
Sinh ngày: 3 - 10 - 2000 (Canh Thìn), xã Buôn Triết,
huyện Lắk.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Văn Sơn. Năm
2018 học Trường Cao đẳng Lý Tử Trọng, ngành Công nghệ Thông tin tại thành phố Hồ
Chí Minh. Năm 2021 ra trường, hiện nay làm việc tại tỉnh Bình Phước.
13. 2.4.42 - Ông Cao Quốc Sinh.
Sinh ngày: 26 -
2 - 2005 (Ất Dậu), xã Buôn Triết, huyện Lăk.
Ông là con trai thứ ba cụ Cao Văn Sơn. Học
Trường THPT.
13. 2.4.43 - Ông
Cao Trần Bảo Long.
Sinh ngày: 3 -
10 - 2011 (Tân Mão), Thành phố Hồ Chí Minh
Ông là con trai cụ Cao Đức Triệu, học Trường
Tiểu học An Khánh, phường An Khánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
13.
2.5.44 - Ông Cao Đông Cương.
Sinh ngày: 7- 5 -
1981 (Tân Dậu), xã Điền Hải, huyện Đông Hải.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Đông Thiện. Gia đình đang làm ăn, sinh sống bằng nông
nghiệp ở ấp Long Hà, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Bà Bùi
Thị Lụa.
Sinh ngày: 15 - 8 - 1990 (Canh Ngọ).
Bà là con gái cụ Bùi Văn Tái, xã Giao Hà,
làm nông nghiệp.
Ông bà sinh được: 1 con trai, 2 con gái.
Con trai:
- Cao Trung Nguyên.
Hai
con gái:
-
Thứ nhất là Cao Tú Trinh, sinh năm 2009.
- Thứ hai là Cao Tú Uyên, sinh năm 2013.
13. 2.5.45
- Ông Cao Thiên Tài.
Sinh ngày: 14 - 11 - 1991 (Tân Mùi), xã Điền Hải, Đông Hải.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Đông Thiện.
Năm 2010 - 2013 học tại Học viện Biên phòng, ra trường về công tác ở Đồn biên
phòng Nhà Mát, Bộ đội Biên phòng tỉnh Bạc Liêu, Đội trưởng Đội trinh sát, Đồn
biên phòng Nhà Mát, được phong cấp hàm Đại uý. Năm 2021 về công tác ở Ban chỉ
huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bạc Liêu.
Bà Sử Tú Quyên.
Sinh
ngày: 17 - 10 - 1991 (Tân Mùi).
Bà là con gái cụ Sử Tuấn Kiệt, xã Ninh Quế
A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Ông
bà đã có 1 con trai: - Cao Phước Lộc.
C - CHI THỨ BA
13. 3.1.46 - Ông Cao Trần Dương.
Sinh năm: Đinh Mão (1987), thôn Toàn Thắng.
Ông là con trai
cụ Cao Trần Dưỡng. Học Trường Trung cấp nghề, nay làm thợ sửa chữa xe máy, Thành
phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. 3.1.47 - Cao Thanh Bình.
Ngày sinh: 21 - 12 - 2011 (Tân Mão), quận Thủ Đức.
Ông
là con trai bà hai cụ Cao Trần Dưỡng.
13. 3.1.48 - Ông Cao Tùng Sơn.
Sinh
ngày: 11- 8 - 1998 (Mậu Dần), thành phố
Vũng Tàu.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Văn Hiền. Năm 2016 tốt nghiệp THPT, thành phố Vũng
Tàu, thi đỗ và học ngành Dược, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
13. 3.1.49 - Ông Cao Hoàng Bách.
Sinh ngày: 30 - 9 - 2001 (Tân Tỵ), thành phố Vũng Tàu.
Ông
là con trai thứ hai cụ Cao Văn Hiền. Năm 2018 tốt nghiệp THPT Trường Trần Nguyên Hãn thành phố Vũng Tàu, thi
đỗ và học Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh, ngành Công nghệ Thông Tin.
13.
3.1.50 - Ông Cao Huy Hoàng.
Sinh ngày: 27- 7 - 1993 (Quý Dậu), thôn Toàn Thắng.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Song Hảo. Năm
2011 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ. Năm 2011 - 2016 học Trường ĐH SPKT thành phố HCM.
Từ năm 2017 đến nay làm việc ở Công ty TNHH Lương Hải Hưng, Thành phố HCM.
Bà Cung Thị Nguyệt Hằng.
Sinh
ngày: 29 - 12 - 1993 (Quý Dậu).
Bà
là con gái cụ Cung Tấn Ngọc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông bà đã có 1 con trai: - Cao Thiên Phúc.
13. 3.1.51 - Ông Cao Thế Huy.
Sinh ngày:
30 - 4 - 2002 (Nhâm Ngọ), xã Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ hai cụ Cao Song Hảo. Năm 2020 tốt nghiệp THPT tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2020 học
Trường Đại học Điện lực thành phố Hồ Chí Minh.
D - CHI THỨ TƯ
13. 4.1.52 - Ông Cao Quang Chức.
Sinh năm: Canh Dần (1950), thôn Thống Nhất.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Trung Tôn. Năm 1970 - 1978 tham gia Quân đội đánh Mỹ,
cấp bậc Thiếu úy. Năm 1978 - 1988 là Đội trưởng, Phó Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp.
Năm 1988 - 2010 là Đảng uỷ viên xã Giao Tiến, Xã Đội trưởng. Hội viên HCCB Việt
Nam xã Giao Tiến. Nghỉ hưu từ năm 2010. Được thưởng Huy chương Kháng chiến chống
Mỹ hạng Nhất; Huân chương Chiến sỹ Vẻ vang hạng Ba; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp
Vũ trang Quần chúng; Huy hiệu 30, 40, 45 năm tuổi Đảng.
Ông
tham gia các công việc của họ: năm 2015 - 2016 Ban kiến thiết Hoạt Tế Lăng; năm
2017 làm Trưởng Ban xây dựng Phúc Lương Đường; Ban biên soạn Gia phả phái tổ
Cao Đức Thiệm năm 2022.
Bà
Vũ Thị Mão.
Sinh năm:
Tân Mão (1951), thôn Thống Nhất.
Bà
là con gái cụ Vũ Văn Thiệu, thôn Thống Nhất, làm nông nghiệp.
Ông
bà sinh được: 3 con trai và 2 con gái.
Ba con
trai:
- Trưởng là Cao Trọng Đại.
- Thứ hai là Cao Quang Học.
- Thứ ba là Cao Xuân Khoát.
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Huyền, sinh năm 1977. Chồng
là Doãn Thế Văn, con ông Doãn Văn Quế, Xóm 5 Hùng Tiến. Sinh được 2 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Thanh Chuyền, sinh năm
1981, kinh doanh tạp hoá, thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Chồng
Nguyễn Văn Đặng, con ông Nguyễn Văn Thâu cùng quê. Sinh được 2 con trai.
13. 4.1.53 -
Cao Công huý
Xuân Vĩnh, hiệụ Phúc Cửu.
Sinh năm: Mậu Tuất (1958), Xóm 1 Hùng Tiến.
Mất ngày: 26 - 6
năm Mậu Tuất (2018), thọ 61tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng,
Xóm 12 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Trung Tôn.
Sinh thời học phổ thông, năm 1976 - 1982 tham gia Quân đội, cấp bậc Thiếu uý. Từ
năm 1983 phục viên về quê làm nông nghiệp và làm thợ mộc ở tỉnh Cà Mau. Hội
viên HCCB Việt Nam xã Giao Tiến.
Năm
2017 ông làm Thủ quỹ xây dựng Phúc Lương Đường.
Bà Lê Thị
Mai.
Sinh năm: Kỷ Hợi (1959).
Bà là
con gái cụ Lê Văn Khôi, cùng thôn.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 3 con gái.
Con trai: - Cao Đức Ảnh.
Ba con
gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Loan, sinh
năm 1980. Chồng là Phạm Văn Tưởng, con ông Phạm Văn Vừng, Xóm 8 Quyết Thắng.
Sinh 2 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Phượng, sinh
năm 1984. Chồng là Lê Văn Nội, con ông Lê Văn San, Xóm 4 Quyết Tiến. Sinh được
2 con trai.
- Thứ ba là Cao Thị Hường, sinh
năm 1984. Chồng là Vũ Văn Mạch, con ông Vũ Văn Lương, Xóm 8 Hùng Tiến. Sinh1
con trai,1 con gái.
13. 4.1.54 - Ông Cao Xuân Dương.
Sinh năm: Quý Mão (1963), Xóm 1 Hùng Tiến.
Ông là con thứ ba cụ Cao Trung Tôn, làm
nghề thợ mộc ở tỉnh Sơn La và ở quê. Năm 2017 ông tham gia Ban kiến thiết Phúc
Lương Đường.
Bà Vũ Thị Đũi.
Sinh năm: Mậu Thân (1968).
Bà là con gai cụ Vũ Văn Đoan, cùng
thôn.
Ông
bà sinh được: 1 con trai và 2 con gái.
Con
trai: - Cao Trọng Duy.
Hai con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Ngoan, sinh năm 1990. Năm 2009 tốt nghiệp THPT. Năm 2009 - 2014 học Khoa Kế
toán, Học viện Tài chính Hà Nội. Từ năm 2015 đến nay làm kế toán tại Công ty
TNHH 1 Thành viên Trung Anh, thành phố Lào
Cai.
- Thứ hai là Cao Thị Doan,
sinh năm 1996. Năm 2014 tốt nghiệp
THPT. Năm 2014 -
2018 học Trường Đại học GTVT Hà Nội. Hiện nay làm kế toán tại Công ty Thái Hà,
Hà Nội. Chồng là Nguyễn Duy Sơn, con ông ông Nguyễn Văn Thuận, xã Tế Tiêu, huyện
Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
13. 4.1.55 - Cao Công huý
Xuân Dưỡng,
hiệu Phúc Thực.
Sinh năm: Nhâm Tý (1972), Xóm 1 Hùng Tiến.
Mất ngày:
11 - 10 năm Đinh Hợi (2007), hưởng
36 tuổi.
Mộ quy lăng của Chi, nghĩa trang Sân Rồng,
Xóm 12 Giao Tiến.
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Trung Tôn,
làm nông nghiệp ở quê.
Bà Hoàng Thị Cài.
Sinh năm: Nhâm Tý (1972), Xóm 1 Hùng Tiến.
Bà là con gái cụ Hoàng Văn Rao ở Xóm 1
Hùng Tiến.
Ông bà
sinh được 1 con trai, 2 con gái:
Con trai:
- Cao Văn Sinh, sinh và mất năm 1993.
Hai
con gái:
- Thứ nhất là
Cao Thị Diễm, sinh năm 1996. Chồng là Vũ Hồng Quân, con ông Vũ Văn Hải,
xã Hợp Thành, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Sinh được 2 con trai.
- Thứ hai là Cao Thị Như Quỳnh,
sinh năm 2001. Năm 2019 tốt nghiệp THPT Giao Thuỷ. Từ năm 2019 học Đại học Ngành
QTKD, Viện Kinh tế và Quản lý ĐHBK Hà Nội.
13. 4.1.56 - Ông Cao Thanh Bình.
Sinh năm: Ất Tỵ (1965), Xóm 1 Hùng Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Hữu Nghị. Năm 1981 - 1984 tham gia Quân đội.
Năm 1984 ra quân về làm ăn, sinh sống tại quê và làm nghề thợ
mộc ở huyện Sông
Mã, tỉnh Sơn La.
Bà Phạm Thị Dịu.
Sinh năm: Giáp Dần (1974).
Bà là con gái cụ Phạm Văn Châu, thôn Đoàn
Kết.
Ông
bà sinh được 2 con trai:
- Trưởng là Cao Văn Phong.
- Thứ hai là Cao Văn Trung.
13. 4.1.57 - Ông Cao Thanh Thường.
Sinh năm: Giáp Dần (1974), Xóm 1 Hùng Tiến.
Ông
là con trai thứ hai cụ Cao Hữu Nghị, làm thợ mộc ở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
và ở quê.
Bà Hoàng Thị Mây.
Sinh
năm: Kỷ Mùi (1979), Xóm 1 Hùng Tiến.
Bà
là con gái cụ Hoàng Hải ở Xóm 1 Hùng Tiến.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1
con gái.
Con trai: - Cao Hoàng Hiếu.
Con gái:
- Cao Thị Hải Ly, sinh năm
1998. Năm 2016 tốt nghiệp THPT, từ năm 2016 học Trường Đại học Y Thái Bình.
13. 4.1.58 - Ông Cao Trường Giang.
Sinh
năm: Đinh Tỵ (1977), Xóm 1 Hùng Tiến.
Ông là con thứ ba cụ Cao Hữu Nghị, làm thợ
mộc ở huyện Sông Mã,
tỉnh Sơn La và ở
quê.
Bà
Lê Thị Hạnh.
Sinh
năm: Kỷ Tỵ (1989).
Bà là
con gái ông Lê Trung Hà, Xóm 16, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường. Năm 2007 tốt
nghiệp THPT, năm 2007 - 2012 học Trường Đại học SPKT Nam Định. Hiện nay làm cán
bộ Văn phòng Đảng uỷ xã Nặm Păm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Lê
Đan Nguyên.
Con gái:
- Cao
Lê Đan Nhi, sinh ngày 9 - 8 - 2012, xã Giao Tiến.
13. 4.1.59 - Ông Cao Thanh Sơn.
Sinh năm: Bính Dần (1986), xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ.
Ông là con trai cả bà hai cụ Cao Hữu
Nghị. Hiện nay làm doanh nghiệp xây dựng Xuân Phương, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai
Châu.
Bà Trần Thị Phượng.
Sinh năm: Đinh Mão (1987).
Bà là con gái ông Trần Quang Xá, thị trấn
Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Hiện nay làm Dược sỹ ở Bệnh viện Tây
An, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Ông
bà sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: - Cao Trần
Quốc Bảo.
Con gái:
- Cao
Nhã Phương, sinh ngày 4 - 8 - 2015 ở Lai Châu.
13. 4.1.60 - Ông Cao Thanh Nam.
Sinh năm: Canh
Ngọ (1990), xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ.
Ông
là con trai thứ hai bà hai cụ Cao Hữu Nghị, kinh doanh dịch vụ xã Đồng Văn, huyện
Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.
Bà
(đã ly hôn)
Ông
bà sinh được 1 con gái:
- Cao Thị Thanh Trúc, sinh
ngày 2 - 3 - 2015 ở Nghệ An.
13. 4.1.61 - Ông Cao Bảo Anh.
Sinh
ngày: 15 - 5 - 1969 (Kỷ Dậu), thành phố
Hà Nội.
Ông
là con trai trưởng cụ Cao Anh Long. Tốt nghiệp Trường THPT Cao Bá Quát, Gia
Lâm, Hà Nội. Năm 1992 tốt nghiệp Kỹ sư Chế tạo máy Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội. Năm 1999 văn bằng 2 Cử nhân Kinh tế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Thạc
sỹ ngành Chính sách Khoa học Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn. Năm 1993 - 2003 chuyên viên Phòng Khoa học Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ,
Hà Nội. Năm 2003 đến nay là chuyên viên Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Công Thương.
Gia đình ở phường Trung Tự, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Bà Phan Thị Thanh Bích.
Sinh ngày: 17 - 2 - 1972 (Nhâm Tý).
Bà quê ở xã Minh Đạo, huyện Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1991 - 1995 học Trường Đại học
Hà Nội, Cử nhân Anh văn. Năm 2002 văn bằng 2 Cử nhân Kinh tế Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội. Từ năm 2005 làm việc ở Trung tâm Đào tạo và Hợp tác Quốc tế,
Viện Kiến trúc quy hoạch Đô thị &Nông thôn, Thành phố Hà Nội.
Ông bà sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất là Cao Thị Trung Anh,
sinh năm 1998
- Thứ hai là Cao Thị Diệu Quyên,
sinh năm 2003.
13. 4.1.62 - Ông Cao Việt
Anh.
Sinh ngày: 21 - 12 - 1970 (Canh
Tuất), thành phố Hà Nội.
Ông là con trai thứ hai cụ Cao Anh Long. Năm 1987 - 1992
học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tốt nghiệp Kỹ sư Hóa Thực phẩm. Năm 1992 -
1994 giảng dạy ở Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Năm 1994 - 2000 làm việc ở
Công ty Chế biến, Kinh doanh Dầu mỏ thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Học và
lấy bằng Cao cấp chuyên ngành Bảo hiểm Nhân thọ, Viện Quản lý Bảo hiểm Nhân thọ
Hoa Kỳ cấp. Năm 2002 đến nay làm việc cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ MANULIFE của
Canada với các cương vị: Chuyên viên Đào tạo, Giám đốc Kinh doanh của công ty ở
Đà Nẵng, Giám đốc Kinh doanh của công ty tại Hà Nội, Giám đốc Kinh doanh cao cấp
phụ trách 2 văn phòng Hà Nội và Hải Phòng. Gia đình ở đường Hoàng Hoa Thám, quận
Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
Bà Hà Lan.
Sinh
năm: Giáp Dần (1974).
Bà
quê ở thành phố Bắc Giang. Cử nhân Kinh tế năm 1994, Thạc sỹ Kinh tế năm 2009, Học
viện TC Hà Nội. Năm 1994 - 2002 làm việc ở Công ty Chế biến Kinh doanh sản phẩm
Dầu mỏ. Năm 2002 đến nay làm việc Tổng Công ty Bảo hiểm Dầu khí, Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam các vị trí: Phó Trưởng phòng Kế toán, Trưởng phòng Kế toán, Trưởng
ban Kiểm soát.
Ông bà sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao
Anh Đức.
Con
gái: - Cao Hà Châu Anh, sinh năm 1999.
13. 4.1.63 - Ông Cao Thế Anh.
Sinh ngày:
10 - 5 - 1978 (Mậu Ngọ).
Ông là con trai cụ Cao Đức Hải. Năm 2001 tốt
nghiệp Cử nhân Kinh
tế, Trường Đại học
Kinh tế Đà Nẵng. Năm 2002 - 2005 làm việc ở Ngân hàng Chính sách Xã hội, huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Năm 2005 - 2009 làm việc tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí
Thanh Hóa. Năm 2009 làm ở Phòng Tổ chức Hành chính, Khu Liên hợp lọc, hóa dầu
Nghi Sơn, Thanh Hóa. Gia đình ở Số nhà 8/449 đường Bà Triệu, phường Đông Thọ, thành
phố Thanh Hóa. Từ năm 2021 gia đình chuyển vào Phường 10, Quận 6, Thành phố Hồ
Chí Minh, mở Công ty TNHH kinh doanh Vật tư Nông Nghiệp.
Bà
Hoàng Thị Hồng.
Sinh
năm: Ất Sửu (1985).
Năm
2007 tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế ngành Kế toán tại Học viện TCKT. Năm 2007 làm
việc cho Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thanh Hóa.
Ông bà
sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con
trai: - Cao Hoàng Gia Bảo.
Con
gái: - Cao Hoàng Bảo Châu. Sinh
ngày 6 - 12 - 2013, Thành phố TH.
13. 4.1.64 - Ông Cao Đức Anh.
Sinh
ngày: 7 - 2 - 1992 (Nhâm Thân), thành phố Đà Nẵng.
Ông là con trai cụ Cao Đức Dũng. Năm 2010
tốt nghiệp THPT. Năm
2010 - 2014 học
và tốt nghiệp Trường ĐHSP thuộc Đại học Đà Nẵng. Từ
năm 2015 đến nay
là giảng viên Trường ĐHSP Đà Nẵng.
Bà Phạm Mỹ Hạnh
Sinh ngày:
29 - 1 - 1992 (Nhâm Thân), Thành phố Đà Nẵng.
Bà là con gái cụ Phạm.... Hiện nay đang công tác tại Trung tâm
phát triển Giáo dục và hoà nhập Thành phố Đà Nẵng.
Ông bà
sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con trai: - Cao Gia Huy
Con gái: - Cao Hà
Tư Di, sinh ngày 15 - 1 - 2020.
Đ - CHI THỨ NĂM
13. 5.1.65 - Ông Cao Đinh Hùng Dương.
Sinh ngày: 9 - 2
- 1977 (Đinh Tỵ), xã Giao Tiến.
Ông là con trai trưởng cụ Cao Quang Bình.
Năm 2005 học lớp đào tạo lái máy xúc ở tỉnh Ninh Bình. Hiện nay làm việc cho doanh
nghiệp tư nhân Hợp Thành, tỉnh Cao Bằng.
Bà Lưu Thị Tuyết Thanh
Sinh ngày:
19 - 5 - 1976 (Bính Thìn), thị trấn
Bảo Lạc, Cao Bằng.
Bà là con gái cụ Lưu Văn Xéng, Khu 6, thị trấn
Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Năm 1996 học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Tốt nghiệp
về làm giáo viên ở Cao Bằng, đã làm Phó Hiệu trưởng, Hiệu trưởng Trường Tiểu học
thị trấn Bảo Lạc, nay làm Phó Trưởng phòng Giáo dục huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
Ông bà đã có 1 con trai: - Cao
Đinh Quang Vinh.
13. 5.1.66 - Ông Cao Đinh Dinh.
Sinh ngày: 2 - 8
- 1979 (Kỷ Mùi), xã Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ hai cụ Cao Quang Bình. Học lớp đào tạo lái xe ở Nam Phong, Nam
Định. Hiện nay làm công nhân lái xe tải ở Công ty Thiết bị Điện máy Ngọc Hùng, quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Bà Vũ Thị Thu Hiền
Sinh
ngày: 2 - 12 - 1984 (Giáp Tý), xã Giao Tiến.
Bà
là con gái cụ Vũ Văn Khang, Xóm 1 Quyết Thắng. Năm 2002
học Trường Đại học
Thuỷ sản Nha Trang, năm 2012 Tốt nghiệp Thạc sỹ ngành Bảo tồn Động vật quý hiếm.
Hiện nay làm việc tại Phòng Phân loại Nguồn gen thuộc Viện KH&CN Việt Nam.
Ông bà sinh được 1 con gái:
- Cao
Đinh Bảo Quyên, sinh ngày 23 - 1 - 2017.
13.
5.1.67 - Ông Cao Đinh Doanh.
Sinh
ngày: 3 - 10 - 1981 (Tân Dậu), xã Giao Tiến.
Ông
là con trai thứ ba cụ Cao Quang Bình. Năm 2000 học lớp đào tạo lái xe ở tỉnh
Ninh Bình. Hiện nay làm công nhân lái xe tải ở tỉnh Cao Bằng.
Bà Nhâm Thị Tố Oanh.
Sinh ngày:
10 - 8 - 1986 (Bính Dần), xã Vĩnh Phong, Bảo Lâm.
Bà
là con gái cụ Nhâm Văn Kim, dân tộc Tày, xã Vĩnh Phong, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao
Bằng. Học Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo TW, nay làm nghề may mặc.
Ông bà đã sinh được: 1 con trai, 1con gái.
Con
trai: -
Cao Đinh Đức Anh.
Con
gái: - Cao Đinh Thuỳ
Phương, sinh ngày 23 - 3 - 2017.
13. 5.1.68 - Ông Cao Đinh Giang.
Sinh
ngày: 18 - 8 - 1983 (Quý Hợi), xã Giao Tiến.
Ông là con trai thứ tư cụ Cao Quang Bình.
Năm 2001 đi nghĩa vụ Quân sự. Năm 2005 học lớp đào tạo lái xe ở tỉnh Ninh Bình.
Hiện nay làm nghề lái xe khách ở tỉnh Cao Bằng.
Bà
Lê Thị Mai Liên.
Sinh
ngày: 22 - 12 - 1983 (Quý Hợi), thành phố Cao Bằng.
Bà
là con gái cụ Lê Văn Quang, Tổ 8, phường Tân Giang, thành phố Cao Bằng. Tốt
nghiệp Trường Cao đẳng Tài chính Kế toán, tỉnh Cao Bằng. Làm việc ở cửa hàng
bán thuốc Tân dược thành phố Cao Bằng, nay về quê
chồng làm ở Công ty may Xuất khẩu.
Ông bà đã sinh được 1 con trai:
- Cao Đinh Hồng Phúc.
13.
5.1.69 - Ông Cao Đình Bản.
Sinh năm: Canh Ngọ (1990), xã Giao Tiến.
Ông là con trai cụ Cao Đình Ban. Năm
2008 - 2013 học Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội, ngành Công nghệ Thông tin.
Từ năm 2013 - 2019 làm việc tại Công ty APATIT Lào Cai. Từ năm 2020 về làm việc
trong lĩnh vực IT tại thành phố Hà Nội. Nhà ở Khu Tập thể 212 HVKTQS, phường
Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Bà Hoàng Thị Giang
Sinh ngày: 6 - 4
- 1991 (Tân Mùi).
Bà là con gái cụ Hoàng Văn Hào cùng thôn. Năm 2009 tốt nghiệp THPT. Năm 2009 - 2014 học và tốt nghiệp Học viện Tài chính, Hà Nội. Từ năm 2015 đến nay làm việc ở Công ty TMCP CITICOM Hà Nội.
ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN
A - CHI TRƯỞNG
14. 1.1.1 - Cao Minh Quý.
Sinh
ngày: 17 - 10 - 1975 (Ất Mão), thành phố Hà Nội.
Là con trai ông Cao Trọng Hiền, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 1992 tốt
nghiệp THPT. Năm 1992 - 1993 học Trường ĐHGTVT Hà Nội. Năm 1993 - 2007 sang nước
Cộng hòa Ba Lan học Đại học, Cao học và
làm luận án Tiến
sỹ về Kinh tế. Từ năm 2007 đến nay làm việc ở Trường ĐHGTVT Hà Nội: Tiến sỹ,
Phó Trưởng khoa Môi trường, An toàn Giao thông. Gia đình ở SN 9, Ngõ 97, đường
Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Hà Nội. Năm 2013 chuyển đến ở nhà chung cư làng Việt kiều châu Âu, phường Mộ
Lao, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Cùng với bố xây dựng khu lăng mộ
gia đình (từ đời thứ 12), tại nghĩa
trang Công viên Vĩnh hằng Ba Vì, Hà Nội.
Vợ Nguyễn Thị Lệ Thủy.
Sinh ngày:
21 - 12 - 1978 (Mậu Ngọ), thành
phố Hà Nội.
Con gái ông Nguyễn Văn Hiểu, Thành phố Hà Nội.
Tốt nghiệp THPT năm 1995. Năm 1995 - 2005 học Đại học và Cao học tại nước Cộng
hòa Ba Lan, tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Kinh tế công. Năm 2005 - 2008, làm việc tại
Trung tâm Khoa học Công nghệ và môi trường Giao thông, Trường Đại học Giao
thông Vận tải Hà Nội. Năm 2008, công tác tại Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục
Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Vợ chồng sinh được 1 con trai: - Cao
Minh Sơn
14.1.1.2 - Cao Đức Huy.
Sinh
ngày: 23 - 10 - 1991 (Tân Mùi), thành phố Lào Cai.
Là
con trai trưởng ông Cao Văn Tham, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2009 tốt nghiệp
THPT. Năm 2009 - 2014 học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 2014 tốt nghiệp
Kỹ sư Điện, năm 2018 tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Điện. Từ năm 2014 đến nay
làm việc ở Viện Năng lượng, Bộ Công Thương. Nhà ở Số 60A, Ngõ 663 Trương Định,
phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Vợ Phan Thị Xuân Thy.
Sinh năm: Mậu Dần (1998)
Là
con gái ông Phan Xuân Phúc, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, Bình Thuận. Năm
2021tốt nghiệp Đại học KHTN, Đại học Quốc gia Thành phố HCM. Hiện nay làm việc
tại CT Xuất nhập khẩu LT Việt Nam ở Hà Nội.
14. 1.1.3 - Cao Việt Hoàng.
Sinh ngày:
31 - 3 - 1998 (Mậu Dần), thành phố Lào Cai.
Là con trai thứ hai ông Cao Văn Tham, cháu
cụ Cao Khắc Khoan.
Năm 2016 tốt
nghiệp THPT, học Trường Đại học KTQD Hà Nội, năm 2020 tốt nghiệp bằng Cử nhân. Hiện đang học thêm Lập
trình tại Hà Nội.
14. 1.1.4 - Cao Việt Hùng.
Sinh
ngày: 27- 3 - 1993 (Quý Dậu), thành phố Lào Cai.
Là con trai trưởng ông Cao Quốc Hóa, cháu cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2011 tốt
nghiệp THPT. Năm 2011 - 2015 học Trường Đại học FPT Hà Nộị. Từ năm 2014 đến nay
làm việc ở Công ty Phần mềm ORENDA, thành
phố Hà Nội. Gia
đình ở ngõ Thịnh Quang, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Vợ
Nguyễn Thị Thuỳ Dung.
Sinh ngày: 4 - 11 - 1994 (Giáp Tuất),
xã Thanh Tuyền.
Con gái ông Nguyễn Tuấn Sự, xã Thanh Tuyền,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 2012 tốt nghiệp THPT. Năm 2016 tốt nghiệp
Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, bằng Cử nhân, làm việc tại Công ty Bất động
sản NEWSTARLAND ở thành phố Hà Nội.
Vợ
chồng sinh được 1 con trai: - Cao Phúc Hưng.
14. 1.1.5 - Cao Thanh Tùng.
Sinh
ngày: 28 - 10 - 1994 (Giáp Tuất), thành phố Lào Cai.
Là con trai thứ hai ông Cao Quốc Hóa, cháu
cụ Cao Khắc Khoan. Năm 2012 tốt nghiệp THPT. Năm 2012 - 2017 học Trường ĐHGTVT Hà
Nội. Học bằng 2 Trường ĐHKTQD Hà Nội.
Hiện nay làm kinh doanh ở Hà Nội. Nơi ở 60B, Nguyễn Huy Tưởng, P. Thanh Xuân B,
Q. Thanh Xuân.
Vợ Lê
Thị Hà
Sinh
ngày: 6 - 9 - 1999 (Kỷ Mão).
Là con gái
ông Lê Đình Sơn, xã Thọ Lộc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tốt nghiệp ĐH Công
nghiệp Hà Nội năm 2021, hiện nay cùng chồng làm kinh doanh tại thành phố Hà Nội.
Vợ chồng sinh được 1 con trai: - Cao
14. 1.1.6 - Cao Kỳ Long.
Sinh
ngày: 25 - 3 - 2008 (Mậu Tý), thành phố Lào Cai.
Là con trai ông Cao Văn Viên, cháu cụ Cao Khắc
Khoan.
14. 1.1.7 - Cao Quang Hưng.
Sinh ngày: 11 -
4 - 1982 (Nhâm Tuất), thành phố Thái Nguyên.
Là
con trai ông Cao Đăng Rung, cháu cụ Cao Đăng Rong. Năm 2000 tốt nghiệp THPT.
Năm 2000 - 2005 học Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2008 đến nay là Kỹ
sư Tự động hóa, làm việc ở Xí nghiệp Khai thác Dầu khí, thuộc Liên doanh
VIETSOPETRO. Gia đình ở Thành phố Vũng Tàu,
Vợ Trần Thị Mai Lan.
Sinh ngày: 22 -
11 - 1982 (Nhâm Tuất).
Là con gái ông Trần Hải Thanh quê ở tỉnh
Thái Bình. Cử nhân Kinh tế, công tác ở Sở Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cấp bậc
Thiếu tá.
Vợ chồng sinh được: 2 con trai, 1 con gái .
Hai
con trai: - Cao Trần Phúc
Thịnh.
- Cao Trần
Quốc Vượng.
Con gái: - Cao Ngọc Phúc An,
sinh ngày 11 - 8 - 2015.
14. 1.1.8 - Cao Trần Quyết.
Sinh ngày:
12 - 9 - 2001 (Tân Tỵ), thành phố
Yên Bái.
Là con trai trưởng ông Cao Bình Định,
cháu cụ Cao Quốc Hữu. Năm 2019 tốt nghiệp THPT, Thành phố Yên Bái, học Trường ĐH Điện lực, Hà Nội.
14. 1.1.9 - Cao Minh Thắng.
Sinh ngày: 8 - 3
- 2005 (Ất Dậu), thành phố Yên Bái.
Là con trai thứ hai ông Cao Bình
Định, cháu cụ Cao Quốc Hữu. Học Trường THPT, Thành phố Yên Bái.
14. 1.1.10 - Cao Đức Minh.
Sinh
ngày: 21 - 9 - 2012 (Nhâm Thìn), thành phố Yên Bái.
Là
con trai ông Cao Bình Cung, cháu cụ Cao Quốc Hữu.
14. 1.2.11 - Cao Hoàng Long
Sinh
ngày: 23 - 8 - 1997 (Đinh Sửu), Bệnh viện Gang Thép,
thành phố Thái Nguyên.
Là con
trai bà Cao Thị Thanh Huyền và ông Lê Hùng Chiến Thành phố Hà Nội, cháu cụ Cao
Quốc Sủng, làm kế tự ông Cao Quang Khải. Năm 2015 tốt nghiệp Trường THPT Lý Thái
Tổ, Hà Nội. Năm 2015 - 2020 học Trường ĐHCNGTVT
Hà Nội, Khoa Điện tử Viễn thông, tốt
nghiệp bằng Kỹ sư. Năm 2020 - 2022 học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ Viễn
thông Trường ĐHGTVT Hà Nội. Từ năm 2020 làm việc cho
Tổng Công ty Truyền thông Đa phương tiện VTC ở Thành phố Hà Nội.
Nhà ở số
8, Ngõ 22, phố Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
14. 1.2.12 - Cao Ngọc Khánh.
Sinh
ngày: 18 - 1 - 1986 (1985, Ất Sửu),
thôn Cộng Hòa.
Là con trai trưởng ông Cao Xuân Thiện,
cháu cụ Cao Ngọc Cờn. Năm 2003 tốt nghiệp Trường THPT Lê Hồng Phong, Nam Định.
Năm 2003 - 2008 học hệ Kỹ sư Chất lượng cao ngành Đo lường và Tin học Công nghiệp
Trường ĐHBK Hà Nội, tốt nghiệp loại giỏi. Từ năm 2008 đến nay là Kỹ sư Tự động
hóa, làm việc tại các đơn vị: Tổng Công ty dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC);
Công ty TNHH PETRONAS, Việt Nam ở thành
phố Vũng Tàu. Năm 2017 - 2018 học và tốt nghiệp bằng Thạc sỹ chuyên ngành Tự động
hoá, Trường ĐHBK Hà Nội. Nhà A1017, Chung cư
HODECO, Số 36, Nguyễn Thái Học, thành phố Vũng Tàu.
Vợ
Bùi Thị Hương.
Sinh
ngày: 20 - 5 - 1987 (Đinh Mão), xã Thọ
Nghiệp.
Là con gái ông Bùi Đắc Tích, Xóm 7, xã Thọ
nghiệp, huyện Xuân Trường. Năm 2005 tốt nghiệp THPT, học Trường Đại học Công
đoàn, Khoa Kế toán, tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế. năm 2010 làm việc ở Công ty
Khoan, Tổng Công ty dịch vụ Dầu khí (PVD), thành phố Vũng Tàu.
Vợ chồng sinh được 2 con gái:
- Thứ nhất
là Cao Ngọc Hà, sinh ngày 3 - 8 - 2012.
- Thứ hai là Cao Linh Phương, sinh ngày 2 - 2 - 2017.
14. 1.2.13 - Cao Ngọc Khương.
Sinh ngày:
1 - 11 - 1993 (Quý Dậu), thị trấn Ngô Đồng.
Là con trai thứ hai ông Cao Xuân Thiện, cháu cụ Cao Ngọc Cờn. Năm 2011 tốt nghiệp Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Nam Định. Năm 2011 - 2016 học hệ Kỹ sư Tài năng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, tốt nghiệp loại giỏi chuyên ngành Điều khiển tự động. Năm 2016 làm việc tại Nhà máy Chế biến Khí Dinh Cố, Tổng Công ty PVGAS, thành phố Vũng Tàu. Từ tháng 10 năm 2020 chuyển ra Hà Nội học Cao học tại trường ĐH KHTN, Đại học QGHN.
14. 1.2.14 - Cao Minh Hoàng.
Sinh ngày:
14 - 5 - 2000 (Canh Thìn), thành
phố Đà Nẵng.
Là con trai ông Cao Văn Chiến, cháu cụ Cao
Chi Thừng. Năm 2018 tốt nghiệp THPT, học Khoa Điện tử Viễn thông, Trường ĐHBK Đà
Nẵng.
14. 1.2.15 - Cao Văn Dũng.
Sinh ngày:
2 - 11 - 1994 (Giáp Tuất), xã
Giao Lạc.
Là con trai ông Cao Văn Thắng, cháu cụ Cao
Chi Thừng. Năm 2012
tốt nghiệp THPT.
Năm 2013 nhập ngũ vào Lữ đoàn 161 vùng 3 Hải quân.
Năm 2014 - 2015
học Trung cấp Tàu thuyền, Quân chủng Hải quân. Tốt
nghiệp loại giỏi,
cấp hàm Trung úy QNCN, công tác ở Lữ đoàn 161 Vùng 3 Hải quân, thành phố Đà Nẵng.
Vợ Đỗ Nguyễn Ý Nguyên
Sinh ngày: 25 - 3 - 1996 (Nhâm Tý).
Là con gái ông Đỗ Đình Thể, thôn Nam Yên, xã
Hoà Bắc, huyện Hoà vang, Thành phố Đà Nẵng. Năm 2014 tốt nghiệp THPT, năm 2014
- 2019 học Đại học Sư phạm Đà Nẵng, ra trường làm việc ở Thành phố Đà Nẵng.
Vợ chồng đã có 1 con gái:
- Cao Đỗ
Nhã Quỳnh, sinh ngày 17 - 2 - 2021.
14. 1.2.16 - Cao Minh Phước.
Sinh
ngày: 29 - 4 - 2010 (Canh Dần), xã Giao Lạc.
Là
con trai ông Cao Văn Biên, cháu cụ Cao Chi Thừng.
14. 1.2.17 - Cao Vũ Lâm Giang.
Sinh ngày: 29 -
4 - 2010 (Canh Dần), thành phố Lào Cai.
Là con trai trưởng ông Cao Anh Hào, cháu cụ
Cao Xuân Thế.
14. 1.2.18 - Cao Vũ Hoàng Bách.
Sinh ngày: 15 -
3 - 2018 (Mậu Tuất), thành phố Lào Cai.
Là con trai thứ hai ông Cao Anh Hào, cháu
cụ Cao Xuân Thế.
14. 1.2.19 - Cao Trần Ngọc.
Sinh ngày: 6 - 2
- 2000 (Canh Thìn), thôn Cộng Hòa.
Là
con trai trưởng ông Cao Ngọc Chinh, cháu cụ Cao Văn Tộ. Năm
2018 tốt nghiệp
THPT thành phố Cao Bằng. Từ năm 2018 học Trường Đại học GREENWICH Việt Nam, Khoa
Quản trị Maketing.
14. 1.2.120 - Cao Trần Bảo An.
Sinh
ngày: 4 - 7 -
2008 (Mậu Tý), thôn Cộng Hòa.
Là
con trai thứ hai ông Cao Ngọc Chinh, cháu cụ Cao Văn Tộ.
14. 1.2.21 - Cao Trường Sơn.
Sinh
ngày: 22 - 9 - 2000 (Canh Thìn), thôn Cộng Hòa.
Là con trai ông Cao Văn Nhàn, cháu cụ Cao Văn
Tộ. Năm 2015 tốt
nghiệp THCS, làm
việc cho Công ty TNHH Nhinh Chinh, Thành phố Cao Bằng. Từ năm 2018 về làm ở
Công ty May mặc Dệt kim SMART SHIRTS, Chi nhánh huyện Xuân Trường.
14. 1.3.22 - Cao Thanh Lâm.
Sinh
ngày: 9 - 12 - 2007 (Đinh Hợi), thành phố Lào Cai.
Là con trai trưởng ông Cao Hải Long, cháu cụ
Cao Bàng Đức.
14. 1.3.23 - Cao Nam Phong
Sinh ngày:
6 - 1 - 2021 (Tân Sửu), thành phố
Lào Cai.
Là con trai bà hai ông Cao Hải Long,
cháu cụ Cao Bàng Đức.
14. 1.3.24 - Cao Trường Giang.
Sinh ngày: 12 - 9
- 2013 (Quý Tỵ), thị trấn Bát Xát.
Là con trai trưởng ông Cao Văn Thành,
cháu cụ Cao Trọng Đạt.
14. 1.3.25 - Cao Hiển Vinh.
Sinh ngày : 30 -
7 - 2014 (Giáp Ngọ), thị trấn Bát Xát.
Là con trai thứ hai ông Cao Văn
Thành, cháu cụ Cao Trọng Đạt.
14. 1.3.26 - Cao Phúc Nguyên.
Sinh ngày: 1 -
12 - 2015 (Ất Mùi), thôn Tân Bảo, xã Bản Qua.
Là con trai ông Cao Văn Hưng, cháu cụ
Cao Kỳ Lân.
14. 1.4.26 - Cao Quang Anh.
Sinh ngày: 19 - 9 - 1983
(Quý Hợi), thôn Việt Dũng.
Là con trai ông Cao Văn Thục, cháu cụ Cao
Văn Quy, làm nghề thợ
mộc ở phường An
Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Vợ Nguyễn Thị Hiếu.
Sinh năm:
Tân Dậu (1981).
Là con gái ông Nguyễn Văn Trung, huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Hiện nay cùng với chồng ở thành phố Cần Thơ.
Vợ chồng
đã sinh được: 1 con trai, 1 con gái.
Con
trai: - Cao
Trần Phú.
Con gái:
- Cao Ngọc Duyên, sinh ngày 14 - 3 -
2011, Thành phố Cần Thơ.
14. 1.4.28 - Cao Hoàng Nguyên.
Sinh ngày: 7 -
11 - 2021 (Tân Sửu), xã Bạch
Long.
Là con trai ông Cao Văn Sỹ, cháu cụ
Cao Văn Minh.
B - CHI THỨ HAI
14. 2.2.29 - Cao Đặng Bảo Châu.
Sinh năm: Nhâm Thân (1992).
Là con trai ông Cao Trung Hiếu, cháu
cụ Cao Trung Chính. Hiện làm việc ở 24H Số 1209, Huỳnh Tấn Phát, P. Phú Nhuận,
Quận 7, Thành phố HCM.
14. 2.2.30 - Cao Thế Khang.
Là con trai ông Cao Thế Minh, cháu cụ
Cao Trung Chính, ở thành
phố Hồ Chí Minh.
14. 2.2.31 - Cao Đặng Kim Hoàng.
Sinh năm: Nhâm Ngọ (2002).
Là con trai ông Cao Trọng Tuấn, cháu
cụ Cao Trung Chính, ở thành phố Hồ Chí Minh.
14. 2.2.32 - Cao Võ Hải Trường.
Sinh năm: Tân Mão (2011).
Con trai ông Cao Trần Hải, cháu cụ
Cao Trung Chính, ở Thành phố HCM.
14. 2.2.33 - Cao Trung Nguyên.
Sinh năm: Giáp Ngọ (2014), xã Điền Hải, huyện Đông Hải.
Là con trai ông Cao Đông Cương, cháu cụ Cao
Đông Thiện.
14. 2.2.34 - Cao Phước Lộc.
Sinh
ngày: 28 - 8 - 2018 (Mậu Tuất), xã Điền
Hải, Đông Hải.
Là con trai ông Cao Thiên Tài, cháu cụ
Cao Đông Thiện.
C - CHI THỨ BA
14. 3.1.35 - Cao Thiên Phúc.
Sinh ngày: 3 - 2
- 2021 (Tân Sửu), Thành phố Hồ
Chí Minh.
Là con trai ông Cao Huy Hoàng, cháu cụ
Cao Song Hảo.
D - CHI THỨ TƯ
14. 4.1.36 - Cao Trọng Đại.
Sinh năm: Nhâm Tý (1972), xã Giao Tiến.
Là con trai trưởng ông Cao Quang Chức,
cháu cụ Cao Trung Tôn. Năm 1990 - 1993 tham gia Quân đội, cấp bậc Hạ sỹ. Hội
viên HCCB Việt
Nam, xã Giao Tiến;
Giám đốc Công ty TNHH Tiến Đạị.
Vợ Nguyễn Thị Quyên.
Sinh năm:
Quý Sửu (1973).
Là con gái ông Nguyễn Đình Mân.
Vợ
chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con trai: - Cao Đình Duẩn.
Con gái:
- Cao Thị Phương Hoa, sinh năm 1996. Năm 2014
tốt nghiệp THPT, năm 2014 - 2018 học Trường Đại học Luật Hà Nội. Hiện nay làm
việc ở Văn phòng Công chứng Thăng Long, Thành phố Hà Nội.
14. 4.1.37 - Cao Quang Học.
Sinh năm: Ất Mão (1975), xã Giao Tiến.
Là con trai thứ hai ông Cao Quang Chức,
cháu cụ Cao Trung Tôn. Tốt nghiệp THPT, lập gia đình, làm nghề may mặc ở quê.
Vợ Lê Thị Loan.
Sinh năm: Mậu Ngọ (1978), Xóm 1 Hùng Tiến
Là
con gái ông Lê Văn Phòng ở Xóm 1 Hùng Tiến.
Vợ
chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con trai: - Cao
Quang Trường.
Con
gái:
- Cao Thị Thùy Linh, sinh năm 1997. Năm 2015 tốt nghiệp THPT. Năm 2015 - 2019 học Trường ĐHCN GTVT, Hà Nội. Năm 2019 đến nay làm ở Công ty FPT Chi nhánh Thạch Thất, Hà Nội. Chồng Trần Văn Hùng con ông Trần Đức Lợi, xã Bình Yên, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Sinh 1 con gái và 1 con trai.
14. 4.1.38 - Cao Xuân Khoát.
Sinh
năm: Nhâm Tuất (1982), xã Giao Tiến.
Là con trai thứ ba ông Cao Quang Chức,
cháu cụ Cao Trung Tôn. Hiện nay làm cán bộ Viện KSND huyện Xuân Trường.
Vợ Lê thị Thúy.
Sinh năm: Nhâm Tuất (1982), xã Thọ Nghiệp.
Là con gái ông Lê Văn Tiến, xã Thọ Nghiệp,
huyện Xuân Trường. Hiện nay làm giáo viên Trường Mầm non Khu B, xã Giao Tiến.
Vợ
chồng sinh được: 1 con trai, 1 con gái:
Con
trai: - Cao
Phúc Hưng.
Con
gái: - Cao Phương Anh, sinh năm
2007.
14. 4.1.39 - Cao Đức Ảnh.
Sinh năm: Nhâm Tuất (1982), xã Giao Tiến.
Là
con trai ông Cao Xuân Vĩnh, cháu cụ Cao Trung Tôn. Hiện nay làm kinh doanh tại
thị trấn Bắc Qua, tỉnh Hà Giang.
Vợ Vũ Thị Phượng.
Sinh năm: Giáp Tý (1984), thôn Quyết Thắng.
Là
con gái ông Vũ Văn Phương, thôn Quyết Thắng.
Vợ
chồng sinh được: 1 con trai và 1 con gái.
Con
trai: - Cao Tấn Tài.
Con gái: - Cao Thị Ánh Diệu, sinh năm 2002.
14.
4.1.40 - Cao Trọng Duy.
Sinh năm: Nhâm Thân (1992), xã Giao Tiến.
Là con trai Ông Cao Xuân Dương, cháu cụ
Cao Trung Tôn. Năm 2010 tốt nghiệp THPT, học Trường Cao đẳng Công nghệ Nam Định.
Hiện nay làm tại Khu Công nghiệp Sam Sung, Thành
phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Vợ
Hoàng Thị Mai
Sinh năm: Bính Tý (1996), thị trấn Liễu Đề.
Là con gái ông Hoàng Văn Khải, thị trấn Liễu Đề,
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Năm 2014 tốt nghiệp THPT. Năm 2014 - 2016 học
Trung cấp Dược, Trường Y tế Nam Định. Hiện nay làm kinh doanh tại thành phố Hà
Nội.
Vợ chồng sinh được: 1 con trai, 1 con gái:
Con
trai: - Cao Hoàng
Gia Bảo
Con
gái: - Cao Hoàng Linh Nhi, sinh ngày 23 - 11 -
2019.
14. 4.1.41 - Cao Văn Phong.
Sinh ngày: 9 - 2 -
1996 (Bính Tý), xã Giao Tiến.
Là con trai trưởng ông Cao Thanh Bình,
cháu cụ Cao Hữu Nghị. Năm 2014 tốt nghiệp THPT, được tuyển vào Công an nghĩa vụ.
Hiện nay công tác tại C50, Bộ Công an.
14. 4.1.42 - Cao Văn Trung.
Sinh ngày: 18 - 8 - 1998 (Mậu Dần), xã
Giao Tiến.
Là
con trai thứ hai ông Cao Thanh Bình, cháu cụ Cao Hữu Nghị. Năm 2016 tốt nghiệp
THPT. Từ năm 2016 học Trường Đại học Mỏ - Địa chất ở Thành phố Hà Nội.
14. 4.1.43 - Cao Hoàng Hiếu.
Sinh ngày: 31 - 7 - 2007 (Đinh Hợi), xã Giao Tiến.
Là
con trai ông Cao Thanh Thường, cháu cụ Cao Hữu Nghị.
14. 4.1.44 - Cao Lê Đan Nguyên.
Sinh
ngày: 25 - 5 - 2017 (Đinh Dậu), xã
Giao Tiến.
Là con trai ông Cao Trường Giang, cháu cụ
Cao Hữu Nghị.
14. 4.1.45 - Cao Trần Quốc Bảo.
Sinh ngày: 2 - 2 - 2020 (Canh Tý), Lai Châu.
Là con trai ông Cao Thanh Sơn, cháu cụ Cao
Hữu Nghị.
14. 4.1.46 - Cao Anh Đức.
Sinh năm: 1 -
11 - 2006 (Bính Tuất), Thành phố Hà Nội.
Là con trai ông Cao Việt Anh, cháu cụ
Cao Anh Long.
14. 4.1.47 - Cao Hoàng Gia Bảo.
Sinh năm: 12 - 2 - 2008 (Mậu Tý), Thành phố Thanh Hoá.
Là con trai ông Cao Thế Anh, cháu cụ Cao Đức
Hải.
14. 4.1.48 - Cao Gia Huy
Sinh ngày: 17 -
1 - 2015 (Ất Mùi), Thành phố Đà Nẵng.
Là con trai ông Cao Đức Anh, cháu cụ
cụ Cao Đức Dũng.
Đ - CHI THỨ NĂM
14.
5.1.49 - Cao Đinh Quang Vinh.
Sinh ngày: 22 -
11 - 2014 (Giáp Ngọ), TT. Bảo Lạc, Cao Bằng.
Là con trai ông Cao Đinh Hùng Dương, cháu
cụ Cao Quang Bình.
14. 5.1.50 - Cao Đinh Đức.
Sinh ngày: 15 - 6 - 2008 (Giáp Ngọ), xã
Giao Tiến.
Là con trai ông Cao Đinh Doanh, cháu cụ
Cao Quang Bình.
14. 5.1.51 - Cao Đinh Hồng Phúc.
Sinh ngày: 9 - 2 - 2009 (Kỷ Sửu),
xã Giao Tiến.
Là con trai ông Cao Đinh Giang, cháu cụ
Cao Quang Bình.
ĐỜI THỨ MƯỜI NĂM
A - CHI TRƯỞNG
15. 1.1.1 - Cao Minh Sơn.
Sinh
ngày: 30 - 3 - 2007 (Đinh Hợi), thành phố Hà Nội.
Là con
trai Cao Minh Quý, cháu ông Cao Trọng Hiền.
15. 1.1.2 - Cao Phúc Hưng
Sinh
ngày: 10 - 2 - 2021 (Tân Sửu), thành phố Hà Nội.
Là con
trai Cao Việt Hùng, cháu ông Cao Quốc Hóa.
15. 1.1.3
- Cao Hoàng Bách
Sinh
ngày: 5 - 3 - 2022 (Nhâm Dần), thành
phố Hà Nội.
Là con
trai Cao Thanh Tùng, cháu ông Cao Quốc Hóa.
15.
1.1.4 - Cao Trần Phúc Thịnh.
Sinh
ngày: 5 - 5 - 2018 (Mậu Tuất), thành phố Vũng Tàu.
Là con
trai trưởng Cao Quang Hưng, cháu ông Cao Đăng Rung.
15. 1.1.5 - Cao Trần Quốc Vượng.
Sinh
ngày: 9 - 7 - 2021 (Tân Sửu), thành phố Vũng Tàu.
Là con
trai thứ hai Cao Quang Hưng, cháu ông Cao Đăng Rung.
15. 1.4.6 - Cao Trần Phú.
Sinh ngày:
6 - 10 - 2008 (Canh Tý), thành phố Cần Thơ.
Là con
trai Cao Quang Anh, cháu ông Cao Văn Thục.
D - CHI THỨ TƯ
15. 4.1.7 - Cao Đình Duẩn.
Sinh
ngày: 15 - 12 - 1993 (Quý Dậu), xã Giao Tiến.
Là con trai Cao Trọng Đại, cháu ông Cao Quang
Chức. Năm 2011 tốt nghiệp THPT, học Trường Đại học FPT Hà Nội.
15.
4.1.8 - Cao Quang Trường.
Sinh ngày: 10 - 1 - 2001 (Tân Tỵ), xã Giao Tiến.
Là con trai Cao Quang Học, cháu ông Cao Quang
Chức.
15. 4.1.9 - Cao Phúc Hưng.
Sinh
ngày: 10 - 6 - 2014 (Giáp Ngọ), xã Giao Tiến.
Là con
trai Cao Xuân Khoát, cháu ông Cao Quang Chức.
15. 4.1.10 - Cao Đức Tài.
Sinh
ngày: 10 - 5 - 2007 (Đinh Hợi), xã Giao Tiến.
Là con trai Cao Đức Ảnh, cháu ông Cao Xuân
Vĩnh.
15. 4.1.11 - Cao Hoàng Gia Bảo
Sinh ngày: 10 - 2 -
2022 (Nhâm Dần), xã Giao Tiến.
Là
con trai cao Trọng Duy, cháu ông Cao Xuân Dương.
Trang Gia phả 5 là trang Gia phả chi họ Tổ Cao Đức Bằng. Trang Gia phả 6 là trang Gia phả Chi họ Tổ Cao Đức Thiệm. Hai Chi này thuôc Phái thứ (Ất phái), Cành trưởng.
Trả lờiXóaTrong toàn dòng họ có 2 Cành: trưởng, thứ (9 Phái) có trên 300 Chi họ dữ liệu chi tiết rất lớn, chưa có đủ tài liệu chi tiết để biên tập cập nhật trên Blog. Kính mong các Chi các Phái biên tập để cập nhật cug cấp thông tin rộng rãi cho con cháu trong dòng họ.
Vì vậy nhiều con cháu không thể tìm thấy phần Gia phả cua gia đình mình trên Blog. Từ đời thứ 11 đến đời thứ 16, cơ bản là còn thiếu.