Cúng giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán nhằm tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề.
I.
Ý nghĩa:
Cúng giỗ là
một buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời là ngày quan trọng của người Việt, được tính theo Âm lịch (người Công giáo VN thường cúng giỗ theo Dương lịch). Ngày này là ngày để thể hiện tấm lòng thủy chung, thương xót
của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà
giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần
xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần lưng cơm đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người mất cũng
đã có lòng Thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương xót người
đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để làm giỗ,
không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ.
Thân bằng, cố
hữu của những người quá cố nếu thấy lưu luyến thì đến dự giỗ theo ngày đã định
sẵn từ trước, không cần phải đợi đến thiệp mời như tiệc cưới, lễ mừng, không
nên có chuyện hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo (有請有来, 无请不到), nghĩa là có mời thì đến,
không mời không đến.
II.
Cách
khấn trong cúng giỗ
Theo sách "Thọ mai gia lễ" (tác
giả là Hồ Sỹ Tân 1690-1760) hiệu Thọ Mai người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu,
đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế)
việc cúng giỗ chỉ thực hiện trong 5 đời theo phép "Ngũ đại đồng
đường", đến đời thứ 6 người chịu trách nhiệm cúng giỗ sẽ mang "thần
chủ" của cụ 6 đời đem đi chôn mà không thờ cũng nữa gọi là "ngũ đại
mai thần chủ". Tất cả các "thần chủ" đều được sửa lại nâng lên 1
đời tính từ người chịu trách nhiệm cúng giỗ, còn về phần cụ 6 đời sẽ rước vào
nhà thờ họ để khấn chung với cộng đồng Gia Tiên trong những dịp Xuân Tế hay
Chạp Tổ.
·
Thủy Tổ dòng họ thì cụ ông gọi là Hiển Thủy Tổ Khảo còn cụ bà gọi là Hiển Thủy Tổ Tỷ
·
Từ
đời thứ 2 kể từ sau Thủy Tổ đến
trước Ngũ Đại tính
trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm cúng giỗ.
o Nếu là đàn ông đã chết thì chỉ khấn gộp
chung là Hiển Cao Tằng Tổ Khảo
o Nếu là đàn bà đã chết thì chỉ khấn gộp
chung là Hiển Cao Tằng Tổ Tỷ.
·
Ngũ Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm
cúng giỗ
o Nếu kị ông đã chết thì phải khấn
là Hiển Cao Tổ Khảo
o Nếu kị bà đã chết thì phải khấn
là Hiển Cao Tổ Tỷ
o Nếu kị bác nội (anh kị nội) đã chết thì
phải khấn là Hiển Cao Tổ Bá Khảo,
còn kị bà bác nội (chị dâu kị nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Cao Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là
kị chú nội (em kị nội) hoặc kị thím (em dâu kị nội) thì sửa chữ Bá thành chữ Thúc. Trường hợp kị cô ruột (chị hay
em gái kị nội) thì bỏ các chữ Bá,
Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ Cô, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị
thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng
trước chữ Cao mà bỏ
chữ Hiển và chữ Khảo đi.
·
Tứ Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm
cúng giỗ
o Nếu cụ ông đã chết thì phải khấn
là Hiển Tằng Tổ Khảo
o Nếu cụ bà đã chết thì phải khấn
là Hiển Tằng Tổ Tỷ
o Nếu cụ bác nội (anh cụ nội) đã chết thì
phải khấn là Hiển Tằng Tổ Bá Khảo,
còn cụ bà bác nội (chị dâu cụ nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tằng Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là
cụ chú nội (em cụ nội) hoặc cụ thím (em dâu cụ nội) thì sửa chữ Bá thành chữ Thúc. Trường hợp cụ cô ruột (chị hay
em gái cụ nội) thì bỏ các chữ Bá,
Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ Cô, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị
thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng
trước chữ Tằng mà bỏ
chữ Hiển và chữ Khảo đi.
·
Tam Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm
cúng giỗ
o Nếu ông nội đã chết thì phải khấn
là Hiển Tổ Khảo
o Nếu bà nội đã chết thì phải khấn
là Hiển Tổ Tỷ
o Nếu ông ngoại (trường hợp bên mẹ không
còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Ngoại Tổ Khảo
o Nếu bà ngoại (trường hợp bên mẹ không
còn người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Ngoại Tổ Tỷ
o Nếu ông bác nội (anh ông nội) đã chết
thì phải khấn là Hiển Tổ Bá Khảo,
còn bà bác nội (chị dâu ông nội) đã chết thì phải khấn là Hiển Tổ Bá Tỷ, cũng như thế mà là ông
chú nội (em ông nội) hoặc bà thím (em dâu ông nội) thì sửa chữ Bá thành chữ Thúc. Trường hợp bà cô ruột (chị hay
em gái ông nội) thì bỏ các chữ Bá,
Thúc đi mà thay vào đó bằng chữ Cô, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa đến "tuổi vị
thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng
trước chữ Tổ mà bỏ
chữ Hiển và chữ Khảo đi.
·
Nhị Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm
cúng giỗ
o Nếu cha đẻ đã chết thì phải khấn
là Hiển Khảo
o Nếu mẹ đẻ đã chết thì phải khấn
là Hiển Tỷ
o Nếu cha vợ (trường hợp bên vợ không còn
người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Nhạc Phụ
o Nếu mẹ vợ (trường hợp bên vợ không còn
người thừa tự) đã chết thì phải khấn là Hiển Nhạc Mẫu
o Nếu bác ruột (anh bố) đã chết thì phải
khấn là Hiển Bá Khảo, còn
bác dâu (chị dâu bố) đã chết thì phải khấn là Hiển Bá Tỷ, cũng như thế mà là chú ruột (em bố) hoặc thím (em dâu
bố) thì sửa chữ Bá thành
chữ Thúc. Trường hợp cô
ruột (chị hoặc em gái bố) thì bỏ các chữ Bá, Thúc đi mà thay chữ Cô vào vị trí đó, các trường hợp trên nếu chết non khi chưa
đến "tuổi vị thành niên" đều phải thêm chữ Mãnh đằng trước mà bỏ chữ Hiển và chữ Khảo đi.
o Nếu cậu ruột (anh hoặc em trai mẹ) đã
chết (trường hợp bên mẹ không còn người thừa tự) thì phải khấn là Hiển Cữu Phụ, vợ của cậu thay
chữ Phụ ra chữ Mẫu. Nếu là chị mẹ thì để nguyên
chữ Hiển mà thay 2 chữ
sau là Bá Mẫu, còn em gái
mẹ thì đổi chữ Bá thành
chữ Di, chồng bá hoặc chồng
gì thì đổi chữ Mẫu thành
chữ Phụ là xong, tất
cả những người chết trẻ khi chưa thành niên thì đảo chữ Hiển sang chữ Mãnh.
·
Nhất Đại tính trực tiếp từ bản thân người chịu trách nhiệm
cúng giỗ
o Nếu anh trai đã chết thì phải khấn
là Bào Huynh, trường hợp
anh cùng bố khác mẹ gọi là: Thân
Huynh, trường hợp anh cùng mẹ khác bố gọi là Thệ Huynh, trường hợp người anh đó
chết non khi còn ở "tuổi vị thành niên" thì thêm chữ Mãnh vào trước chữ Huynh. Tương tự nếu người quá cố là em
trai thì thay chữ Huynh bằng
chữ Đệ, nếu là chị gái đổi
thành chữ Tỷ và em gái
thì sửa là chữ Muội. Còn
trường hợp chị dâu (nếu chưa có con với anh mà ở vậy không tái giá) thì thay
chữ Huynh bằng
chữ Tẩu và em dâu thì
đổi gọi thành Đệ Phụ.
o Nếu anh con bác ruột đã chết (trường
hợp bên đó vô thừa tự) thì phải khấn là Tụng Huynh, trường hợp người anh đó chết non khi còn ở "tuổi
vị thành niên" thì thêm chữ Mãnh vào
trước chữ Huynh, nếu là chị
gái con bác ruột thì đổi chữ Huynh thành
chữ Tỷ. Tương tự nếu người
quá cố là em trai con chú ruột thì thay chữ Huynh bằng chữ Đệ,
cũng như vậy mà là em gái thì sửa thành chữ Muội. Còn trường hợp chị dâu (nếu chưa có con với anh con bác ruột
mà ở vậy không tái giá) thì thay chữ Huynh bằng chữ Tẩu và
em dâu thì đổi gọi thành Đệ Phụ.
o Nếu vợ chết trước thì chồng sẽ khấn
là Hiền Thê, ngược lại vợ
sẽ khấn chồng là Lương Phu
·
Nghịch Cảnh
o Nếu con trai không may chết trước cha
mẹ khi đã đến tuổi thành niên mà chưa có gia đình (trong trường hợp các em còn
nhỏ) thì gọi là Yểu Tử,
tương tự con gái là Yểu Nữ.
Ghi
chú: Tất cả những trường
hợp chết chưa đến tuổi thành niên (nữ dưới 13 tuổi, nam dưới 16 tuổi) không có
cúng giỗ riêng mà đều khấn chung là Thương vong tòng tự.
III.
Những hoạt động
chính
Sau khi cúng
giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc
của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ.
Một biến thể
của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình làng
đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa
hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật. Trước khi hạ xuống, chủ
nhà phải vái 3 vái ngắn (gọi là Lễ Tạ). Phải làm như vậy để tạ ơn gia tiên đã
về thừa hưởng những lễ mà con cháu đã dâng lên.
Dịp này là để
con cháu trong dòng họ tề tựu lại để cùng ăn giỗ, thăm hỏi tình hình lẫn nhau.
Ngày Cát kỵ thường chỉ mời khách nằm gọn trong gia đình, dòng tộc đến ăn giỗ
(diện mời không rộng như Tiểu Tường và Đại Tường).
Gia chủ khăn
áo chỉnh tề, bước vào khấn Tổ tiên. Khách đến dự giỗ thì đặt đồ lễ lên bàn thờ,
cùng gia chủ vái 4 lạy 3 vái. Sau khi gia chủ, khách khứa, bạn bè thân hữu khấn
lễ xong xuôi thì đợi hết ba tuần hương thì gia chủ đứng trước bàn thờ để lễ tạ
bằng ba vái ngắn rồi lấy đồ vàng mã đem đi đốt. Cuối cùng, gia chủ bày bàn để
mời khách khứa ăn giỗ, để cùng ôn lại những kỷ niệm về người đã khuất đồng thời
thăm hỏi về công việc lẫn nhau. Sau khi ăn giỗ xong, gia chủ hạ tất cả lễ vật
trên bàn thờ, chia đều mỗi túi một hay nhiều thứ cho từng gia đình - thân khách
gọi là lộc của Tổ tiên, bao gồm: hoa quả, bánh kẹo...
IV.
Những ngày quan
trọng trong cúng giỗ
Trong thờ cúng
tổ tiên, có 3 ngày giỗ: Giỗ đầu, Giỗ hết (tang), Giỗ thường.
1. Giỗ Đầu
Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường (chữ Hán: 小祥.Chữ tường 祥 là điều lành), là ngày giỗ đầu tiên sau ngày
người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai,
sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn,
xót xa tủi hận trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta
thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với ngày để tang năm trước, con
cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của
người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước. Nhà có điều kiện
thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.
Sắm lễ
Vào ngày Giỗ
Đầu, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản... thì người ta thường mua
sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả
các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ và một hình nhân. Hình nhân ở
đây không có nghĩa là thế mạng cho người thật (người còn sống) mà là do nhân
dân tin rằng, với phép thuật của thầy phù thủy thì hình nhân này sẽ hóa thành
một người thật, xuống dưới Âm giới để hầu hạ vong linh người mất. Gia chủ sẽ
đem những đồ lễ này lên bàn thờ để cúng. Cúng xong thì đem ra ngoài mộ để đốt.
Những đồ vàng
mã trong ngày Tiểu Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này
được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên
không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự
quấy nhiễu.
Sau khi lễ Tạ
và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Khách đến
ăn giỗ ăn mặc trang nghiêm, vẫn còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang năm
trước.
Sau lễ này,
người ta sẽ sửa sang lại mộ cho người quá cố, thi hài vẫn nằm dưới huyệt hung
táng.
2. Giỗ Hết tang
Giỗ Hết gọi
là Đại Tường (chữ Hán: 大祥), là ngày giỗ sau ngày người mất hai
năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn
những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ
chức trang nghiêm. Lúc tế lễ người được giỗ và Gia tiên, con cháu vẫn mặc đồ
tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm
chẳng kém gì Giỗ Đầu. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.
Sắm lễ
Vào ngày Giỗ
Hết, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản... thì người ta thường mua
sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả
các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ giống như trong ngày Giỗ Đầu. Vàng mã
được đốt cho người quá cố cũng nhiều hơn ngày Giỗ Đầu.
Những đồ vàng
mã trong ngày Đại Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này
được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên
không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự
quấy nhiễu.
Sau khi lễ Tạ
và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Diện mời
đến ăn giỗ dịp này thường đông hơn lễ Tiểu Tường, cỗ bàn cũng làm linh đình và
công phu hơn. Khách đến ăn giỗ vẫn mặc đồ tang phục, vẫn còn một sự bi ai, sầu
thảm như ngày để tang hai năm trước và Tiểu Tường.
Sau ngày lễ
này hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta sẽ chọn ngày tốt để Trừ
phục (còn gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang,
người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang sống sẽ
trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đình
đám và người vợ mới có thể đi bước nữa (nếu chồng mình mất). Đây là một buổi lễ
vô cùng quan trọng, vì nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và vong
linh của người đã mất.
3. Giỗ Thường
Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát Kỵ (chữ Hán: 吉忌), là ngày giỗ sau ngày người mất từ
ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ
giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc như ngày đưa ma nữa, không
còn cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp để con cháu người quá cố sum họp để tưởng nhớ
người đã khuất và diện mời khách không còn rộng rãi như hai lễ Tiểu Tường và
Đại Tường.
Ngày giỗ
thường được duy trì đến hết năm đời. Đến sau năm đời, vong linh người quá cố
được siêu thoát, đầu thai hóa kiếp trở lại nên không cần thiết phải cúng giỗ
nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu còn nhớ đến
tổ tiên và người đã khuất, thể hiện lòng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết
phải quá đắt đỏ, linh đình hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có đĩa muối, bát
cơm úp, quả trứng luộc thì cũng đã giữ được đạo hiếu với tổ tiên.
Sắm lễ
Trong lễ giỗ
này, người ta thường làm cỗ bàn bình thường, có thể lớn hay nhỏ tùy từng gia
đình. Người ta cũng đốt nhiều vàng mã cho người cõi âm có cái dùng như ngày
Tiểu Tường và Đại Tường.
Sau khi lễ Tạ
và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ, cùng thăm
hỏi lẫn nhau và ôn lại những kỷ niệm của người đã khuất. Diện này chỉ thường
mời khách gọn trong phạm vi họ hàng (không rộng như hai giỗ trước). Ngày này,
khách đến ăn giỗ không còn quá đau buồn như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường
trước, có thể mặc trang phục bình thường.
Ngày Tiên Thường và Chính Kỵ
Trong việc
cúng vào ngày Giỗ thì bao gồm gồm 2 lễ quan trọng: Lễ Tiên thường (先嘗 lễ
cúng vào ngày trước ngày người chết qua đời 1 ngày), Lễ Chính kỵ (正忌
chính ngày mất).
Ngày Cáo Giỗ (có nơi gọi là ngày cáo yết)
Ngày Cáo Giỗ còn
được gọi là Tiên Thường là ngày giỗ trước ngày người quá cố
qua đời. Trong ngày này, con cháu cúng cáo giỗ để mời người đã khuất hôm sau về
hưởng giỗ, xin phép Thổ công cho
phép vong hồn người được giỗ và nội ngoại cùng về hưởng giỗ cùng con cháu. Ngày
cúng cáo giỗ chỉ được áp dụng đối với giỗ trọng (tức những người hàng trên hoặc
ngang hàng trưởng gia như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, chồng, vợ, anh, chị, em...)
mà không cần thiết phải áp dụng đối với giỗ mọn (tức những người hàng dưới
trưởng gia như con, cháu, chắt, chít...) mà chỉ cúng ngày chính giỗ. Vào ngày
này, trưởng gia mang lễ ra mộ mời vong hồn về, sửa sang lại mộ phần cho ngay
ngắn.
Ngày này, bàn
thờ được dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ từ sáng sớm để chuẩn bị cho việc cúng lễ
Tiên Thường vào buổi chiều. Họ hàng nội ngoại thường gửi giỗ và sửa soạn để làm
giỗ hôm sau. Lúc đầu sẽ cúng gia tiên và con cháu sẽ ăn uống với nhau. Phải
cúng Công thần Thổ Địa trước, Gia Tiên sau. Bàn thờ lúc nào cũng hương khói
nghi ngút cho đến hết lễ Chính Kỵ vào buổi sáng hôm sau.
Khi cúng, Gia
chủ cần phải cúng để mời người được hưởng giỗ trước, tiếp theo mới đến mời Gia
tiên nội/ngoại từ bậc cao nhất đến thấp nhất và cáo thỉnh Gia thần cùng về đây
để dự tiệc Giỗ.
Ngày Chính Giỗ
Ngày Chính Giỗ còn
được gọi là Chính Kỵ là ngày mất của người được giỗ. Điều bắt
buộc trong cỗ cúng là phải có bát cơm úp và một quả trứng luộc kèm gia vị (ngày
nay không bắt buộc).
Gia chủ có
thể mời khách khứa trong làng xóm, trong họ đến dự. Khách khi đến đều mang theo
trà, cam, rượu... đến lễ giỗ. Khi khách đến thì đón đồ lễ đưa lên bàn thờ. Sau
đó chủ nhà mời khách uống trà, ăn trầu hay bánh kẹo... Cỗ bàn được sắp thành
từng mâm đặt trên chiếc cũi tầm, mỗi mâm có bốn hoặc sáu người ngồi ăn. Thành
phần mâm cỗ gồm vài món ăn tinh khiết, thơm ngon mà chủ nhà đã chuẩn bị cùng
với nước uống, bát đũa...
Những người cùng
lứa tuổi, ngôi vị được ngồi vào một mâm. Đàn ông và đàn bà không nên ngồi
chung. Cỗ hay được làm vào buổi trưa có khi còn được lai rai đến buổi chiều.
Sau khi khách ra về hết chủ nhà lên bàn thờ thắp thêm một tuần hương, lễ tạ xin
hóa vàng.
Có gia đình
thường mời cả hai lễ Tiên Thường và Chính Kỵ, đôi khi lễ tiên thường đông hơn
vì vào buổi chiều, khi làm xong việc thì tới nhà hàng xóm ăn giỗ tiện hơn. Có
những gia đình cả hai vợ chồng được mời đến dự cả hai lễ, một người đi ăn lễ
Tiên Thường và một người đi ăn lễ Chính Kỵ. Dần dần, người ta đã giản lược đi,
chỉ mời khách đến dự trong một lễ nhưng vẫn cúng vàng hương, rượu trong cả hai
lễ. Theo phong tục, lễ tiên thường phải cũng buổi chiều, lễ chính kỵ phải cúng
buổi sáng kể cả khi đến chiều hoặc tối hôm đó mới mất.
Gửi giỗ (góp giỗ)
Người quá cố
có rất nhiều con cháu, chỉ cúng giỗ tại nhà con trai trưởng, nếu con trai
trưởng mất thì làm tại nhà cháu đích tôn. Con cháu sẽ tề tựu ở nhà con trai
trưởng làm giỗ. Nếu người được giỗ là hàng cao thì con cái, cháu chắt đến nhà
trưởng tộc. Lễ gửi giỗ trọng hay mọn, lớn hay nhỏ thì tùy thuộc theo hoàn cảnh
và mối quan hệ với người chết của từng gia đình. Con cháu sẽ là những người
đóng góp nhiều nhất.
Để giảm bớt
gánh nặng chi phí cho trưởng chi hay trưởng họ, con cháu hay gửi giỗ bằng tiền,
đồ lễ vật có giá trị khác như: vài cân hoa quả, vàng hương hoặc có thể chỉ là
thẻ hương. Cũng có thể gửi giỗ theo sở thích của người mất mà gửi. Những người
sống ở xa không có khả năng về dự giỗ thì cúng vọng mời vong hồn về hưởng giỗ,
gửi đồ lễ cho trưởng họ. Những đồ lễ được gửi đến được trưởng tộc đem lên bàn
thờ cúng hết. Khi ăn giỗ xong, con cháu được chia lộc của ông bà tổ tiên.
Làng xã cổ
truyền trước năm 1945 còn có ruộng hương hỏa để góp phần
lợi nhuận cho người làm giỗ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét