Quảng Nam,
ngày 19/03/2013.
Kính gửi: bác Bá
Khoát và các vị Lão tộc Nha Chử, bác Nguyên Trung đại diện họ Trần Thái Xá!
Có thể nói sau những
ngày đầu năm Quý Tỵ 2013, Thanh Châu rất quan tâm đến việc chắp nối thế phổ nơi
đất Bắc, đã có một số bài viết nhanh, nay nhìn lại có những chỗ chưa sát với nội
hàm của Hán tự do tiền nhân để lại, hoặc những sai sót, rất mong các cụ bỏ quá
cho.
Nay với bài nghiên cứu
mới gửi đến quý Bác, trên cơ sở tổng hợp toàn diện hơn các sử liệu đầu mối có
liên quan. Rất mong được các bác quan tâm, chia sẻ.
Chi họ Cổ Tháp hy vọng
sẽ nhận được ý kiến và chính kiến của quý bác, để bài nghiên cứu này được hiệu
đính, đảm bảo tính khách quan và ngắn gọn. Và một hội thảo về Trần Công Ngạn sẽ
sớm được tổ chức vào khoảng thời gian thích hợp.
Nhân đây xin chia sẻ
với các bác trong biên tập sử phả họ Trần Nguyên Hãn hai ý kiến nhỏ:
- Một số bài viết nơi trang Blog họ Cao Trần, một số tác giả đã viết
về ngài Trần Pháp Độ là Trần Quốc Duy, ngài Chân Thường húy là Khương liệu có
chính xác không ? Bởi theo nguyên tác Hán tự gốc của Thái Xá, không thấy viết
các Hán tự Quốc Duy, Khương
-Đối với ngài Tả Tướng quốc, bản tổng hợp viết “Năm Diên Ninh ngài
được triều đình minh oán” có thể nói là có căn cứ. Nhưng nếu cho rằng con cháu
ngài, không ai chịu ra làm quan, là chưa khách quan. Bởi một Pháp Độ công,
nguyên bị triều đình quản thúc, giam lỏng nơi Đông Kinh đã ra làm quan đến chức
Thiết chế Tướng công, tức người có công giúp vua Lê kế thừa và đề ra những quy
định, quy chế mới về quản lý bộ máy quan lại (nhà nước), xây dựng một xã hội tiến
bộ, ...
Đề nghị Ban biên tập xem xét,
nếu thiếu căn cứ thì nên hiệu đính sớm, để tránh nhận thức sai lệch và làm khó
cho những nhà nghiên cứu về sau.
Xin kính cháo quý
Bác.
Phước Bình.
THAM LUẬN CỦA CHI HỌ CỔ THÁP (QUÀNG NAM) VỀ:
TRƯỞNG TỬ ĐÍCH TÔN TRẦN CÔNG NGẠN
LÀNG THỌ AN?
1. Gia phả cổ Nghệ An ghi:
Ngã tổ Pháp Độ công dĩ thiên hoàng chính
phái (Thời cụ đối bất cảm tường
sở xuất). Ư Lê Hồng Đức – Thánh Tông ngũ niên (Giáp Ngọ 1474), dữ đệ nhị nhân
Thỉ tự Sơn Nam
thiên Thanh Hóa trú lục niên. Lưu Trưởng, thứ nhị tử dữ tổ Bà tại Tống Sơn
huyện, nãi huề Đệ tam nam Thiện Tính công vãng cổ Hoan, tầm thiên Thái Xá, trú trì vu Phì Cam tự (hiệu
Liên Hoa tự) nội đạo trứ danh, bốc thọ tàng tại Hào Cường thôn phúc địa Hậu
làng xứ, tọa Mão hướng Dậu kim tồn, trúc thổ trạch tại Phú Hữu, Cồn Dù xứ (cổ
hiệu Nương Mao). Nam
Thiện Tính công hiệu Chân Thường sinh tam nam:
- Nhất lang
Trần Chân Tịch hiệu Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng.
- Nhị lang
Trần Chân Tính hiệu Huyền Thông.
- Tam lang
Trần Chân Thiên hiệu Huyền Linh.
Tổ
Trần Chân Tịch và bà Hoàng Thị Tâm. Giỗ ông ngày 23 tháng 8 âm lịch, cúng
hợp kỵ ngày 27/03.
Lăng mộ ông bà Chân Tịch tại Bảo Tháp,
xã Diến Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Ông bà sinh hạ được 4 con trai, được mấy con
gái không rõ nhưng cả dòng họ Chân Tịch thờ cô tổ Quế Hoa Nương.
* Con
trai trưởng là Trần Công Ngạn ở làng Thọ An.
* Con trai thứ 2 là Trần Phúc Thọ sinh
hạ Trần Thủ Hạnh và Trần Đắc.
- Trần Thủ Hạnh sinh hạ các chi họ hậu duệ ở các xã Diễn Hồng, Diễn
Tháp, Diễn Bình, Diễn Vạn, Diễn Kỷ, Diễn Đồng, Diễn Thọ, xã Vĩnh Thành huyện
Yên Thành, Diễn Liên, Diễn Tháp, Diễn Lâm, Diễn Phong, Diễn Ngọc.
(cháu 4 đời của tổ Thủ Hạnh có một Phúc Thiện)
- Trần Đắc
sinh hạ các chi họ Hải Thanh huyện Nghi Lộc, và Tiền Song Diễn Thịnh,......
* Con trai thứ 3: Trần Chân Tâm, ông về
xã Đông Lũy, nay xã Diễn Phong, sinh hạ dòng Đông Lũy. Hậu duệ đời thứ 5 gồm các ông Trần Phúc Thiện, Trần Chỉnh, Trần Bá.
* Con trai thứ 4: Trần Danh Di sinh hạ
các chi Quỳnh Diễn, Quỳnh Thọ, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Thuận.
Theo
tư liệu trên thì tổ Thiện Tính Công theo cha là Pháp Độ Công từ đất huyện Tống
Sơn, Thanh Hóa, vào Nghệ An năm 1479. Năm đó Thiện Tính Công chưa lập gia đình.
Nếu tổ Thiện Tính cưới bà Lê Thị Từ Phúc (hiệu ông bà Chân Thường) vào khoảng năm 1485 – 1490, hơn năm sau sinh tổ Chân
Tịch, và 20 năm sau tổ Chân Tịch sinh tổ Công Ngạn sẽ vào khoảng năm 1511. Đến
năm 1533, Nguyên Hòa năm thứ 1, tức năm Lê Ninh lên ngôi hoàng đế hiệu Trang
Tông tại sách Sầm Hạ nước Ai Lao, ngài Công Ngạn đã trên 20 tuổi.
Gia
phả Nghệ An chép Trưởng tử Đích tôn Trần
Công Ngạn ở làng Thọ An. Ngoài ra, không có một thông tin nào về mồ mả và cảo
huyệt, về hậu duệ, và cũng không có Hán tự tảo một ? (theo biên bản Nghệ An nhìn nhận Nha Chử thì có phụ
chú Hán tự vị tường, vị nhận).
Về
gia thế Trần Công Ngạn có thể tóm lược, ông thuộc dòng dõi Thượng tướng Thái sư
Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải văn võ song toàn, ông tổ là Thái úy Tả
tướng quốc Trần Nguyên Hãn, ông cố là Thiết chế Tướng công Trần Pháp Độ, ông
nội là bậc Nho gia uyên bác, tu hành theo đạo pháp nhà Phật, hiệu Chân Thường, người
cha nối gót tổ tông hiệu Huyền Nghiêm, tự Chân Tịch húy Phúc Quảng, Nhị vị thúc
phụ hiệu Huyền Thông, Huyền Linh đều là những bậc chân tu uyên bác, không tham
gia chính sự, đã sinh hạ những dòng Trần tộc có tiếng thơm nơi đất Nghệ An.
Riêng dòng tổ nội thúc Bảo Tín con mẹ thứ, nhờ ẩn thân nơi quê ngoại, thi đỗ
Bảng nhàn làm quan đời Hồng Thuận đến Thống Nguyên, năm họ Mạc tiếm ngôi ông đã
từ quan về ở ẩn. Đến năm Lê Trung hưng thành công, ông được truy tặng hàm
Thượng thư Phúc thần (mới được
nhìn nhận gần đây). Hành trạng, phần mộ và
cảo huyệt các vị Tiên hiền được hậu duệ tại Nghệ An bảo tồn lưu giữ cho đến
hiện nay. Đã cho phép chúng ta xác định Trần Công Ngạn phải là bậc danh sĩ, hào
kiệt nơi đất Nghệ An lúc bấy giờ.
Làng
Thọ Sơn là nơi sinh cư, hay tự tích gắn liền với số phận của gia đình Trần Công
Ngạn. Trước hết xét về ngữ nghĩa của Hán tự Thọ Sơn:
Thọ An (Thụ An): 受安 hoặc 授安:Nơi diễn ra cuộc phủ dụ, an
ủi của vua quan, và trao cho các chức quan đối với những người theo mình.
Theo
kết quả khảo sát của chi họ Nha Chử, thì làng Thọ Sơn, sau cải làng Trung Chính,
nay xóm Trung Chính, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hán tự Trung
Chính 忠政,có
nghĩa “dốc lòng tòng chính – hết lòng vì
nghiệp lớn”.
Đã cho biết nội hàm của tên làng Thọ An sau
cải Trung Chính, là địa danh từng diễn ra sự kiện có ý nghĩa lớn lao đối với
vua với nước.
Để
làm rõ vấn đề mấu chốt này trong thế phổ Thái Xá. Chúng ta cần lưu tâm những
nguồn tư liệu sau đây:
1. Sự kiện quan quân nhà Lê
trung hưng từ nước Ai Lao về đất Nghệ An, ĐVSKTT chép:
- Canh Tý, Nguyên Hòa năm thứ 8 (1540), Mùa xuân tháng
giêng, ngày 15 Mạc Đăng Doanh chết, con Mạc Phúc Hải lên ngôi.
Tháng 11, Thái sư Hưng quốc công Nguyễn
Kim đem quân về đánh Nghệ An, hào kiệt phần nhiều theo về, thanh thế rất lừng
lẫy, đến đâu là gần xa đều hàng phục.
- Nhâm Dần, Nguyên Hòa năm thứ 10 (1542), Vua lấy Thụy
quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống ngự giá để mưu việc tiến đánh,
sai Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước,
tiến đánh các nơi ở Thanh Hoa, Nghệ An. Tướng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này
phần nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh.
2.
Gia phả Thanh Châu ghi:
Thủy tổ Tính sơ công Trần Quý Công tự Phúc Thiện thụy
Nguyên Trưởng Phủ Quân. Thế tịch nguyên
Nghệ An thừa tuyên, Diễn Châu phủ, Đông Thành huyện, Thái Xá xã. Tập hành
trạng của Hòa thượng Diệu Nghiêm (1738-1810) hậu duệ đời thứ 8 ghi: “Nhơn kỳ viến tổ tại Đông Kinh, Nghệ An thừa
tuyên phủ tòng, Tiên Nguyễn chúa ứng nghĩa nhi lai Việt Nam quốc”. Sử tích Thủy tổ “Bắc địa tòng vương khai thổ võ - Nam
thiên lập ấp chiếm thanh nguyên”. Đã có căn cứ xác định Thủy tổ Phúc Thiện
cùng bà Nguyễn Thị Lan nhị nương, thuộc họ Trần Thái Xá, ứng nghĩa vào Nam cùng
với đoàn quân của Tướng công Nguyễn Hoàng, ra đi từ hành cung vua Lê tại Thanh
Hóa năm 1558. Sự nghiệp của người cha trong tự tích “Bắc địa tòng vương khai thổ võ”
đồng nghĩa với Nghệ An thừa tuyên phủ tòng, đã cho phép chúng tôi đặt vấn đề
tổ Trần Công Ngạn nơi thế phổ Thái Xá, đã theo vua Trang Tông từ Nghệ An vào
khoảng năm 1540, sau đó dời hành cung về Thanh Hóa, tức làm quan triều Lê trung
hưng, đã sinh ra Thủy tổ Trần Phúc Thiện.
3.
Thế phổ Nha Chử:
Nguyên văn âm Hán tự lời tựa và 2 đời đầu:
“Thiên tích tính dĩ lập tông bản hệ sở tự
xuất nhi khởi gia xưngThỉ tổ kế tự đương tư bất vong.
Ngã Cao tộc
phát tích tự Trần gia triệu cơ nhân vu Nha Chử tiền tác hậu thuật khẳng cấu
khẳng đường.
Ngưỡng thâm khải hựu chi nhân cánh thiết
tác cầu chi niệm viên thị tập vi phổ lục vĩnh thị tông khiêu thứ hồ tự sự khổng
minh nhi thế thứ khả kỷ giả dã.
- TRẦN QUÝ CÔNG tự VÔ TÂM.
- TRẦN NHẤT LANG tự PHÚC THIỆN.
- TRẦN NHỊ LANG tự PHÚC
TÍN.
- TRẦN TAM LANG tự CHÂN
KHÔNG.
- TRẦN QUẾ HOA NƯƠNG.
Dĩ thượng chư chân linh phần mộ nguyên
tại cựu quán. Vô Ý công thiên vu tư địa tập biên gia phổ tương Trần tính duệ
hiệu thư vu thế phổ (chi) thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã.
ĐỆ NHẤT ĐẠI THẾ HỆ.
Sáng
nghiệp khai cơ Thái tổ khảo Cao Quý Công tự Vô Ý, chánh ngoạt thập bát nhật kỵ,
mộ tại Đồng Trưng nhị độ, thứ Nhị công húy là ông Bông.
Nguyên
tiền tại Thanh Hoa tỉnh, Lôi Dương huyện, Thịnh Mỹ xã, tục hiệu là Đò Mia. Thỉ
thiên vu tư cải tính Cao Cái tự Công thỉ dã.
Thái tổ
tỷ Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín, cửu nguyệt, nhị thập cửu nhật kỵ, mộ tại cựu
quán.
Tỷ
sanh đắc tam nam, Trưởng Cao Nhất Lang tự Chân Tính tập tước Bình Luận Công tảo
một vô hậu, mộ tại cựu quán, bát nguyệt, thập cửu nhật kỵ. Thứ viết Công Bật,
Tam viết Quý Lang tự Hiếu Lương tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán, bát nguyệt, nhị
thập tam kỵ. Tứ nữ Cao Nhất Nương hiệu Từ Thanh tục là bà Độ, thất nguyệt sơ
tam nhật kỵ, Nhị hiệu Từ Tại, cửu nguyệt, thập cửu nhật kỵ, Tam nương hiệu Từ
Minh tục là bà Thọ, bát nguyệt, nhị thập tứ nhật kỵ, Cao Quý Nương Tiên Hoa
Nương tục là bà Triều Hữu, nhị nguyệt, sơ tứ nhật kỵ.
ĐỆ NHỊ ĐẠI
THẾ HỆ
Giáp
phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật* thụy viết Phúc Hậu, thập nguyệt sơ tứ nhật
kỵ, mộ tại cựu Thượng xứ Nhất độ, thứ Ngũ công. Nãi Vô Ý Công chi thứ tử dã.
Húy Căn, hậu cải Công Bật tập tước Dự Nghĩa công thú tam phòng.
Ư Lê
triều Dụ Tông Vĩnh Thịnh cửu niên Quý Tỵ, phỏng chánh lâm Phật hậu. Chí Vĩnh Thịnh
thập tứ niên Mậu Tuất phỏng bổn thôn hậu Phật.
Án ngô
tộc tự Vô Ý công Tướng công vu tư tân ấp nhất phụ nhất tử. Thử thời nhân đinh
thượng tồn hy thiểu. Chí vu công Tam phòng quảng tự tiệp hữu qua điệt miên sanh
chi triệu, hiện thử tắc công thành khởi chi tổ dã”.
Tư
liệu Nha Chử đã viết nhiều lần về ngôi Sáng nghiệp khai cơ dòng Cao Trần:
Lời
tựa ghi: “Vô Ý công thiên vu tư địa tập biên gia phổ tương Trần tính duệ
hiệu thư vu thế phổ chi thượng sử tử tôn tri thế hệ chi sở tự xuất dã”.
Thế
phổ đời thứ nhất chép: “Sáng nghiệp khai cơ Thái tổ khảo Cao Quý Công tự Vô Ý, chánh ngoạt thập
bát nhật kỵ, mộ tại Đồng Trưng nhị độ, thứ Nhị công húy là ông Bông. Nguyên
tiền tại Thanh Hoa tỉnh, Lôi Dương huyện, Thịnh Mỹ xã, tục hiệu là Đò Mia. Thỉ
thiên vu tư cải tính Cao Cái tự Công thỉ dã”.
Thế
phổ đời thứ 2, ghi: “Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật* thụy viết Phúc Hậu, thập nguyệt sơ tứ
nhật kỵ, mộ tại cựu Thượng xứ Nhất độ, thứ Ngũ công. Nãi Vô Ý Công (chi) thứ tử dã.
Húy Căn, hậu cải Công Bật tập tước Dự Nghĩa công thú tam phòng”.
Phân tích đoạn trích thế phổ Nha Chử cho biết,
ngài Vô Ý công, cùng con trai thứ là Công Bật dời đến tân ấp Nha Chử, và mộ 2
ông đều tại Nha Chử. Bà hiệu Từ Tín, con trai trưởng và con trai út, mộ đều nằm
lại nơi cựu quán. Thế phổ còn có mấy điểm nhấn, Vô Ý công là con trai thứ (thứ tử dã), sinh hạ Thứ viết
Công Bật, húy Căn, hậu cải Công Bật (tập tước Dự Nghĩa công), là Giáp phái Tổ
khảo Cao Trần, sinh hạ dòng Nha Chử. Lại một khẳng định nữa: “Án ngô tộc tự Vô Ý công Tướng công vu
tư tân ấp nhất phụ nhất tử”.
Vậy,
ngôi sáng lập khai cơ dòng Cao Trần là người con trai thứ, tên tự Vô Ý công
Tướng công, phối bà Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín, sinh hạ 3 nam 4 nữ tại
cựu quán xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa. Trong 3 nam theo thế phổ “Trưởng Cao Nhất Lang tự Chân Tính tập
tước Bình Luận Công tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán. Thứ viết Công Bật, Tam viết
Quý Lang tự Hiếu Lương tảo một vô hậu, mộ tại cựu quán”. Nếu đến đây, chỉ
còn duy nhất một người con trai là Công Bật, theo lẽ thường thì chưa phân phái.
Nhưng thế phổ đã chép: “Giáp phái tổ khảo Cao Quý Công tự Công Bật*
thụy viết Phúc Hậu” tức phái nhất thuộc tổ Vô Ý công, là sự xác nhận
còn có Ất hoặc Bính phái. Hay chăng, 3 anh em Chân Tính, Công Bật, Hiếu Lương thuộc
dòng mẹ đích (Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín), còn có con trai dòng mẹ thứ mà
thế phổ Nha Chử chép: “Thử
thời nhân đinh thượng tồn hy thiểu”, có nghĩa, bên ấy, con trai còn rất ít. Sự
kiện nào đã khiến cho bên này (Nha Chử) cũng chỉ còn Nhất phụ nhất tử, bên ấy
nhân đinh thượng tồn hy thiểu (bên ấy rất có thể là dòng Nguyễn Trần
tại Nam
Đàn).
Đây là hai chi tiết trong tự tích Trần Quý Công tự Vô Tâm phần mộ nguyên tại cựu
quán.
Đứng đầu hàng “Dĩ thượng chư chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán ..” là Trần Quý
Công tự Vô Tâm. Nếu xác định ngài là thân phụ của Cao Quý Công tự Vô Ý tướng
công, là tổ nội của tập tước Bình Luận công và Dự nghĩa công. Thì Trần Quý Công
tự Vô Tâm phải là bực công thần của triều Lê trung hưng. Nhưng vì sao thế phổ
không ghi chép rõ ràng, chính sử không một lần nhắc đến danh tính, tước hàm của
Ngài. Tất cả như được gửi gắm nơi tên tự Vô Tâm, và người con là Vô Ý. Trong lịch
sử chỉ thấy ghi chép một vài vị danh sĩ có tên tự là Vô Sự, không một ai tự nhận
mình là người vô tâm, bởi theo Nho giáo tâm đức là vốn quý nhất của kẻ sĩ. Vô
tâm, vô ý thông thường là lời xin lỗi, khi có lỗi với một ai đó.
4. Nha Chử còn có câu đối cổ nơi Từ đường:
“Khởi gia tự tích Ái
châu lai.
Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất”
Tạm dịch: Nhà khởi lên từ đầu mối, dấu vết
nơi sự kiện trở lại Thanh Hóa.
Truyền thế đang sơ (sơ nhất, sơ nhị, ....sơ cửu thế), xuất ra
từ dòng dõi hậu duệ họ Trần thời Ái châu, tức nhà Trần (do Ái châu – Trần
duệ).
(ĐVSKTT chép địa danh Thanh Hóa lần đầu tiên
tại BK 12-25a/ Quang Thuận năm thứ 7 (1466): “Đặt 13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa .. )
(Hán tự lai có nghĩa: đến, lại, vời đến, khoảng, hơn
chút ít // chữ tự: đầu mối // chữ tích:
dấu vết, theo dấu “phàm
sự vật gì đã qua rồi mà còn có dấu vết để lại cho người noi đó mà tìm kiếm đều
gọi là tích”.)
Theo đó, tộc Cao Trần khởi gia trong sự kiện
đầu mối trở lại Thanh Hóa. Bấy giờ dòng tổ xuất ra từ hậu duệ nhà Trần, trước đến
Thanh Hóa, rồi dời cư nơi khác, lại trở về Thanh Hóa trong khoảng thời gian mà
số đời đang ở hàng sơ thế. Trong lịch sử vua chúa Việt Nam, một đời người, một
dòng tộc để lại dấu vết, thông thường là bậc công thần (Quý công), có công với
vua, với nước, làm quan nơi triều chính, được chính sử, thế phổ, bia ký ghi
chép. Với giải thích này có thể là duy ý chí, bởi trong chúng ta đều biết, Thiết
chế Tướng công Trần Pháp Độ, quan triều Lê Thánh Tông. Năm 1474, ngài trí sĩ,
đưa gia đình từ Đông Kinh (Thăng Long) đến định cư tại Tống Sơn, Thanh Hóa. Đến
năm 1479, trưởng tử, thứ tử và tổ bà ở lại Tống Sơn, (tổ ông) bèn dẫn Đệ tam
nam vào Nghệ An tầm thiên. Câu đối xác định có một nhánh Trần duệ trở lại Thanh
Hóa. Thế phổ Nha Chữ có đến 3 vị Quý công là Trần Quý Công tự Vô Tâm, (Trần cải)
Cao Quý Công tự Vô Ý, và Cao Quý Công tự Công Bật, lại có 2 vị được tập tước
Bình Luận công và Dự Nghĩa công tại nguyên tiền Thanh Hóa, nơi vua Lê đóng hành
cung từ khoảng năm 1541 – 1593, thời Nam Bắc triều. Vị tổ khai sáng dòng Nha Chử
họ Trần cải họ Cao Công, tức ngài Vô Ý công Tướng công trong cảnh ngộ “Nhất
phụ, nhất tử” đến vùng đất tân ấp Nha Chử.
Vậy, vị tổ Trần duệ xuất, đầu mối của họ Cao
Trần Nha Chử phải là một vị quan có công với nước, mà chúng ta đang đặt vấn đề
tổ Trần Quý Công tự Vô Tâm phần mộ nguyên tại cựu quán, có phải là Trưởng tử
đích tôn Trần Công Ngạn sinh vào khoảng năm 1511, ở làng Thọ An, cựu quán họ Trần
Thái Xá ?
5.
Nguồn sử liệu chính sử:
Lần
theo chính sử triều Lê và triều Nguyễn, tìm những vị quan tên Ngạn:
a. Thiệu Bình năm thứ
4 (1437): Vũ Đình Ngạn làm ty hình viện đại
phu.
b. Hồng Đức năm thứ
10 (1479): .... Trấn Lỗ tướng quân Lê
Đình Ngạn
c. Hồng Thuận năm thứ 6 (1516): Thuần Mỹ điện giám Trần Cảo ở trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường làm
loạn.... Trong đó có Phan Ất, Đình Ngạn
d. Chính Trị năm thứ
5- Mạc Thuần Phúc năm thứ 1(1562), Phò mã
đô úy Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn làm Chưởng phù Tây vệ.
đ. Hồng Phúc năm thứ
1 – Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), vua
Lê Anh Tông bị giết, quan đại thần Cảnh Hấp, Đình Ngạn gặp nạn.
e. Quang Hưng năm thứ
6-Mạc Diên Thành năm thứ 6 (1583), Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho Nguyễn Tuấn Ngạn
đỗ tiến sĩ cập đệ, ...
g. Đinh Dậu, năm thứ
40 (1597) cùng tướng nhà Lê là Bùi Văn
Khuê, Phan Ngạn (ĐNTL).
Vậy, từ năm 1437 – 1597, có 4 vị Đình
Ngạn, 1 vị Tuấn Ngạn, 1 vị Phan Ngạn, và 1 Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn.
Trong 4 vị Đình Ngạn:
1 vị làm quan triều Lê Thái Tông, 1 vị làm quan triều Lê Thánh Tông, 1 vị làm
quan triều Lê Tương Dực, 1 vị làm quan triều Lê Anh Tông (thời Nam triều, Bắc
triều). Vậy, duy nhất chỉ có quan đại thần Đình Ngạn và Cảnh Hấp gặp nạn dưới
triều Lê Anh Tông, là phù hợp với năm sinh khoảng 1511 của Trần Công Ngạn,
trùng hợp với thời gian hành cung vua Lê tại sách Vạn Lại, huyện Lôi Dương,
Thanh Hóa.
Sự kiện này Đại Việt
sử ký toàn thư chép: “Hồng Phúc năm thứ 1
– Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), Mùa xuân tháng giêng, vua tế trời đất ở đàn Nam
Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất.
Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu là Hồng Phúc năm thứ
1.
Tháng 11 ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hại Tả tướng
Trịnh Tùng. Tả tướng giả vờ không biết, gửi biếu nhiều vàng. Khi Cập Đệ đến tạ
ơn, Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng
bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết
chết, tướng sĩ các ngươi không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì
phải giết cả họ. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động.
Bấy giờ, Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: “Tả tướng quốc cầm
quân, quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng cùng tồn tại với ông ta được”. Vua nghe
nói vậy, hoang mang nghi hoặc, đương đêm bỏ chạy ra ngoài, đem theo bốn hoàng tử
cùng chạy vào thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng bàn với các tướng rằng: Nay
vua nghe theo lời gièm pha của kẻ tiểu nhân đem ngôi báu xiêu giạt ra ngoài.
Thiên hạ không thể một ngày không có vua, ... Chi bằng trước hết hãy tìm hoàng
tử lập lên để yên lòng người, rồi sau sẽ đem quân đi đón vua cũng chưa muộn. Bấy
giờ hoàng tử thứ 5 là Đàm ở xã Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên, bèn sai người đi
đón về tôn lập làm vua, đó là Thế Tông.
Gia Thái năm thứ 1-Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1573), tháng giêng ngày
mồng một, ... tôn hoàng tử lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá, ban dụ đại
cáo: “.... Ngày 26 tháng 2, bị kẻ gian là bọn Cảnh Hấp, Đình Ngạn gièm pha, ly
gián, đến nổi xa giá phiêu giạt ra ngoài, thần dân trong nước không chỗ nương tựa.
.....”
Chính sử triều Lê
không chép 2 ông Cảnh Hấp và Đình Ngạn theo vua Anh Tông bỏ ngai vàng xiêu giạt
vào thành Nghệ An, tức 2 ông vẫn ở lại hành cung Vạn Lại, sử cũng không đề cập
đến việc xử án đối với 2 ông, nhưng với đoạn văn: “Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng
bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết
chết, tướng sĩ các ngươi không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì
phải giết cả họ. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động”,
đã xác định hai ông không thể thoát chết, nếu 2 ông thoát được thân thì chính sử
đã có cơ sở buộc tội 2 ông rõ ràng và chắc chắn hơn.
Cuộc chính biến năm
1572 – 1573, dưới triều Lê trung hưng, vua Anh Tông bị giết, hai nhà quan đại
thần gặp nạn tầy đình, rất phù hợp với gia cảnh họ Trần duệ xuất, nguyên tiền tại
xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa, phải Nhất phụ nhất tử đi về vùng sâu đất
Sơn Nam Hạ (xem sự tích Nguyễn Công
Trứ lấn biển, mở đất dưới triều vua Nguyễn) cải họ Cao Công –
Cao Cái – Cao Quý Công, đến nổi nhân đinh thượng tồn hy thiểu, hàm ý gia cảnh gặp
phải cuộc bể dâu, và cũng rất phù hợp với Trần Công Ngạn làng Thọ An vị tường,
vị nhận.
Vấn đề gia phả chép
Trần Công
Ngạn, chính sử chép Đình Ngạn. Lý giải điều này, có thể
Trịnh Tùng gán tội 2 ông để lấy cớ giết hại vua Anh Tông. Do đó, không thấy ghi
chép việc nghị xử của triều thần. Các nhà viết sử đương thời đương nhiên phải
tước bỏ quan hàm, tước phẩm, bản quán, họ, và tên Công Ngạn đã viết Đình Ngạn, là
có ý đồ của các sử thần, hoặc cũng có thể Đình Ngạn là tên húy của ông trước
khi được phong tước hàm. Chữ công trong danh xưng Quý công, thế phổ Nha Chử ghi
chép đến 3 vị, tên người Công Bật 公 , cải Công Bật 功.
Với những tư liệu
đó, thì nhận định trên không thể là duy ý chí. Nó còn được tự tích của họ Trần
Thanh Châu tại Quảng Nam minh chứng: “Nhơn kỳ viễn tổ tại Đông Kinh, Nghệ An thừa
tuyên phủ tòng, Tiên Nguyễn chúa nhi lai Việt Nam quốc // Thế tịch nguyên Nghệ
An thừa tuyên, Diễn Châu phủ, Đông Thành huyện, Thái Xá xã // Tự tích đầu
mối nơi câu đối: Bắc địa tòng vương khai thổ võ – Nam thiên lập ấp chiếm thanh nguyên.
Ngôi vị của ngài trong dòng tộc Thái Xá được xác định trong tên thụy: Nguyên
Trưởng phủ quân.
Sử liệu Thanh Châu
không có Hán tự Thanh Hóa hay Ái Châu, nhưng ẩn chứa rất rõ trong tự tích “Nghệ
An thừa tuyên phủ tòng – Bắc địa tòng vương khai thổ võ ”, có nghĩa tòng
theo vua Lê từ Nghệ An, tức Trang Tông vị vua sáng nghiệp Trung hưng tại nước
Ai Lao, về Nghệ An, sau đó tiến quân ra Thanh Hóa lập hành cung tồn tại trên 50
năm. Đến năm 1592, mới lấy lại được thành Đông Kinh, kết thúc cuộc nội chiến
Nam Bắc triều.
Câu đối của Thanh
Châu được khắc ghi nơi chính tẩm Từ đường, là đầu mối, dấu vết khá rõ. Vế 1, thờ
vị thân sinh của tổ Phúc Thiện trở lên ẩn chứa trong tự tích: Bắc địa
tòng vương khai thổ võ. Vế 2, thờ ông bà Thủy tổ Trần Quý Công tự Phúc
Thiện và bà Nguyễn Thị Lan nhụ nhơn trở xuống trong tự tích: Nam
thiên lập ấp chiếm thanh nguyên.
Đến sau năm 1975, Thanh
Châu còn lại ít nhất 5 tập Phổ hệ, lưu giữ tại các chi phái khác nhau. Trong
đó, bản của chi Cù Bàn viết song ngữ Hán Việt, chép: Thủy tổ tính sơ công Trần
Quý Công tự Phúc Thiện. Thế tịch nguyên Nghệ An thừa tuyên, ..... Và tên thụy của
ngài nơi mộ chí: Nguyên Trưởng Phủ Quân, là hoàn toàn phù hợp với ngôi Trần Nhất
Lang tự Phúc Thiện nơi thế phổ Nha
Chử.
Dĩ thượng chư chân
linh phần mộ nguyên tại cựu quán ghi:
- TRẦN QUÝ CÔNG tự VÔ TÂM.
- TRẦN NHẤT LANG tự PHÚC THIỆN.
- TRẦN NHỊ LANG tự PHÚC
TÍN.
- TRẦN TAM LANG tự CHÂN
KHÔNG.
- TRẦN QUẾ HOA NƯƠNG.
Từ đó, chúng tôi xác
định Trần Quý Công tự Vô Tâm nơi cựu quán, chính là Trần Công Ngạn ở làng Thọ
An vị tường, là quan Đại thần Đình Ngạn bên cạnh vua Anh Tông bị quốc nạn vào
cuối năm 1572 đầu năm 1573. Với trách nhiệm được giao, hai ông có nói với vua
những lời tâm huyết, lo lắng cho vận mệnh sống còn của vua, của nước, không hề
có tâm khiến vua đang đêm phải bỏ chạy ra ngoài, để rồi cùng bị chết. Đến năm
Nha Chử lập thế phổ, người con thứ của ngài là Nhị lang Tướng công tự Phúc Tín,
cải Cao Công tự Vô Ý vu tư tân ấp, đã chép vào thế phổ tên tự mới của cha mình
là Vô Tâm, và chính ngài Phúc Tín tướng công cũng là người trong cuộc, nên đặt
tên tự mới cho mình là Vô Ý, là sự khái quát hóa độc đáo về cuộc chính biến năm
ấy, mà gia đình ngài là nạn nhân.
Gia phả Thái Xá xác định Trưởng tử đích tôn Trần Công
Ngạn ở Làng
Thọ An, sau cải Trung Chính (nay
xóm Trung Chính, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) tiếp giáp với Thanh Hóa. Trong khi đó, 3 dòng em ruột
của ông là Phúc Thọ, Chân Tâm và Danh Di, đều sinh cư tại các làng không xa
ngôi song mộ của cha mẹ (ông bà Chân Tịch) tại làng Bảo Tháp, đều thuộc huyện
Diễn Châu. Kết hợp với nội hàm của tên làng Thọ An – Trung Chính, xác định địa
danh làng Thọ An chính là nơi vua Lê Trang Tông dừng chân, nơi tiếp nhận và phủ
dụ danh sĩ hào kiệt xứ Nghệ, có thể do Trần Công Ngạn dẫn đầu về phò Lê trung
hưng, là rất phù hợp với nội hàm vế đối: “Khởi gia tự tích Ái Châu lai”.
Đối với cô tổ Trần Quế Hoa Nương, thế phổ
Thái Xá chép: “Tổ Trần Chân Tịch và bà Hoàng Thị Tâm. Giỗ ông ngày 23 tháng 8 âm lịch,
cúng hợp kỵ ngày 27/03.
Lăng mộ ông bà Chân Tịch tại Bảo
Tháp, xã Diến Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Ông bà sinh hạ được 4 con trai, được
mấy con gái không rõ nhưng cả dòng họ Chân Tịch thờ cô tổ Quế Hoa Nương.
Con
trai trưởng là Trần Công Ngạn ở làng Thọ An”.
Như
vậy, thế phổ Nha Chử và Thái Xá cùng chép cô tổ Trần Quế Hoa Nương. Cô tổ Quế
Hoa Nương được cả dòng trưởng Chân Tịch phụng thờ, có thể hiểu cô tổ là con gái
quý của ông bà Chân Tịch, là chị hoặc em gái của tổ Trần Công Ngạn. Tổ cô đã có
chồng, sau hoặc không có con trai, hoặc không xuất giá, hoặc có công lớn giúp
con cháu Trần Công Ngạn thoát thân năm gặp nạn. Nên được các chi thuộc dòng
Trưởng họ ngoại đảm nhận phụng thờ. Phần mộ cô tổ tại đâu, chưa có tư liệu nào
của Nghệ An đề cập đến. Thế phổ Nha Chử chép cô tổ Trần Quế Hoa Nương, là sự
ghi ơn công lao của bà, cũng có thể chính cô tổ đã theo anh hoặc em trai là
Trần Công Ngạn sống nơi đất Thanh Hóa và đã mất trong cuộc chính biến, là yếu
tố xác nhận Nha Chử thuộc dòng trưởng Trần Chân Tịch.
Với
cách ghi chép thì Nhất lang, Nhị lang và Tam lang họ Trần nơi thế phổ Nha Chử,
phải là 3 anh em ruột, rất dễ ngộ nhận với 3 anh em ruột đời trên là: Chân
Tịch, Chân Tính, Chân Thiên tại Thái Xá, hay Công Sũng, Đạo Tín, Thiện Tính tại
Tống Sơn. Nhưng với các tên tự Phúc Thiện
(Thanh Châu đang nhìn nhận là Thủy tổ), Phúc
Tín, và thụy viết Phúc Hậu đời
thứ 2 của Nha Chử, là dấu hiệu lập tộc Trần Phúc tại Thanh Hóa, thuộc dòng
trưởng của ông bà Chân Thường húy Phúc Quảng tại Nghệ An. Nên Trần Tam Lang tự
Chân Không, nếu căn cứ nghĩa của Hán tự Chân
Không thì có thể tổ Tam lang đến đây không còn hậu duệ, tức vô tự nên không
chép tên hiệu có chữ Phúc.
Về
hành trạng của ông bà Chân Thường, được các thế phổ Nghệ An ghi chép khá rõ.
Ngài là Tam lang, được người cha huề vào đất Nghệ An, đến tuổi trưởng thành
phối bà Lê Thị Từ Phúc (hiệu ông bà Chân Thường), sinh hạ đắc tam nam. Cả cuộc đời
tuân hành nội đạo theo dấu chân người cha những năm cuối đời nơi chùa Phì Cam.
Do đó , ngài không tham gia chính sự, mà là bậc chân tu qua tên hiệu Chân
Thường. Ngài có bài thơ thất ngôn bát cú, đầy lạc quan về đường hậu duệ, mộ phần
ông bà được hậu thế chăm nom và bảo tồn cho đến ngày nay tại Nghệ An, kể cả cảo
huyệt. Với hành trạng trong sáng, chân tu, lạc quan không tham gia chính sự của
ông bà Chân Thường, nên không thể có tên tự là Vô Tâm. Hơn nữa, ngài
Chân Thường được hưởng ân điển triều đình là do công của người cha là Thiết chế
Tướng công Pháp Độ, của ông nội là Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, không có tư
liệu nào của Nghệ An viết về công lao đặc biệt của Ngài đối với vua, với nước
để có danh xưng Trần Quý Công.
Nguyên âm Hán tự bài thơ của ngài lưu hậu thế:
Cương
thường kim cổ đạo vô vi.
Hưng
vượng tinh thần lại sảng suy.
Bách
thế hỏa hương thêm nồng vị.
Tử
tôn hoa thảo phất phương phi.
Độ thường
nam bắc phân tam cá.
Cảnh
tùng lam hợp nhất chi chi.
Kiến
thế dã từng am cự tộc.
Hội
từ chiếu vọng phất quang phi.
Cuộc chính biến tại hành cung Vạn Lại năm
1572 – 1573, theo nghiên cứu chính sử thời Nguyễn Sơ, thì có ít nhất 2 vị quan
nhà Lê quy vu Nam
thổ, đó là: “Trương Công Gia - Điện
tiền Đô kiểm điểm Lương quận công đời Lê. Lúc Thái tổ hoàng đế vào Thuận
Hóa, đã đem gia quyến đi theo. Đại Việt sử ký toàn thư, từ năm 1570 đến 1574,
có 4 lần chép Lương quận công, nhưng không nêu danh tính. Năm 1571, ghi “Lương quận công được thăng Thiếu phó” .
Năm 1574, ghi “Bấy giờ Tiết chế Trịnh
Tùng nắm hết mọi quyền trong ngoài. Bọn Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách và Lương quận công ngầm mưu sát hại. Việc
tiết lộ, đều bị bắt hạ ngục để xử tội. Bà phi của Thái vương là Nguyễn thị (Mẹ
của Tiết chế Trịnh Tùng) ra sức cứu gỡ mới được khỏi tội, nhưng bị tước quyền.
Lương
Văn Chính: người huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Lúc trước Văn Chính làm
quan nhà Lê đến chức Thiên vũ Vệ đô chỉ
huy sứ. Theo Thái tổ vào Nam.
Khoảng năm Mậu Dần (1578), người Chiêm Thành đến lấn cướp, Chính tiến quân đến
sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ Thành. Vì có quân công, thăng Đặc
tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, tước Phú Nghĩa hầu”.
Đầu mối Trần Quý
Công tự Phúc Thiện và Công Ngạn như đã trình bày, hoàn toàn trùng khớp ngẩu
nhiên với thế phổ họ Nguyễn chúa, có cùng thời mốc và sự kiện lịch sử:
THẾ PHỔ HỌ NGUYỄN
|
THẾ
PHỔ HỌ TRẦN
|
Nguyễn Công Duẫn – Phụng
thần vệ tướng quân Gia Đình hầu, tặng Thái bảo Hoành quốc công (có công 10
năm đánh dẹp quân Minh, đời Lê Lợi)
|
Tư đồ Thái úy Tả tướng quốc
Trần Nguyên Hãn.
|
Nguyễn Đức Trung – Điện
tiền chỉ huy sứ Đô đốc Trinh quốc công, tặng Thái úy
(con gái làm tiệp dư
sinh vua Lê Hiến Tông)
|
Thiết chế Tướng Công
Trần Pháp Độ.
|
Nguyễn Văn Lãng
(Lang) – Thủy quân vệ chỉ huy sứ, phong Thái úy Nghĩa quốc công bình
chương quân quốc trọng sự, tặng Nghĩa Huân vương.
|
Trần Thiện Tính hiệu Chân Thường.
|
Nguyễn Hoằng Dụ - Đô
đốc An Hòa hầu
|
Trần Chân Tịch hiệu Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng.
|
Nguyễn Kim – Hữu
vệ tướng quân An Thành hầu, được phong Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công
Chưởng nội ngoại sự.
|
Trần Quý Công - Công Ngạn.
|
Nguyễn Hoàng – Đoan
quốc công, Chúa Tiên
|
Trần Quý Công – tự Phúc Thiện,
Nguyên Trưởng phủ quân.
|
Năm 1573, Tướng công
Phúc Tín cùng người con trai thoát thân đi về đất Sơn Nam Hạ, thuộc quyền cai
quản của họ Mạc, không những không quy thuận họ Mạc để hưởng vinh hoa, phú quý
mà ông còn để lại hai tên tự Vô Tâm, Vô Ý như nói với hậu thế, các ông không có
tâm hại vua Anh Tông như chính sử chép, là điều đáng để chúng ta tiếp tục suy
ngẫm.
Kết: Thế phổ Thái Xá chép: Trần Công Ngạn ở làng Thọ An, là sự tích đầu
mối quan trọng đối với tổ Trần Công Ngạn, ông đã lập được công lao xuất chúng
trước khi đến với vương triều Lê trung hưng vào năm 1540 (năm đó ông độ 30 tuổi),
dòng dõi nguyên quan triều tại Đông Kinh lại được khởi gia. Do đó, làng Thọ Sơn
chỉ là nơi dừng chân, có ý nghĩa bước ngoạt của dòng họ tại Thái Xá, đã từng chịu
sự đố kỵ dưới triều Lê sơ mà phải chịu dứt đường quan lại.
Trần Quý Công tự Vô
Tâm, là Trần Công Ngạn nơi thế phổ Thái Xá, là Đình Ngạn quan đại thần nơi
chính sử triều Lê, đã từng sinh cư tại xã Thịnh Mỹ -盛美 ,làng giàu sang, phú quý và đẹp, sau cải Tứ Trụ -四柱 , làng của các quan đại thần, tứ trụ của vương triều
Lê trung hưng nơi đất Thanh Hóa. Nếu căn cứ ngữ nghĩa của Hán tự Thịnh Mỹ xã
sau cải Tứ Trụ xã, kết hợp với sự kiện Cảnh Hấp và Đình Ngạn ở bên cạnh vua,
thì Trần Công Ngạn phải là quan Tứ trụ của triều đình.
Những nhận định trước
đây, Trần Quý Công tự Vô Tâm là Thiện Tính công hiệu Chân Thường, hoặc ngài Vô
Tâm và Cao Quý Công tự Vô Ý là một, là chưa sát hợp với những tự tích mà tổ
tiên đã dày công để lại.
Có thể nói sau mấy
năm liên tục nghiên cứu miệt mài, các tự tích, sử tích của hai nhà Nha Chử và
Thanh Châu, của gia phả gốc họ Trần Thái Xá. Chúng tôi, nhận thấy đã hội đủ điều
kiện để khẳng định “Dĩ thượng chư chân linh phần mộ nguyên tại cựu quán ”, là nơi bản
quán đã sinh ra các vị Chân linh họ Trần làng Thái Xá, khác với Nguyên tiền tại
Thanh Hóa tỉnh. Phần mộ nguyên tại cựu quán là nội hàm nơi đó còn nhiều di tích
mộ đời trên, như thế thế phổ Thái Xá ghi chép là chính xác. Danh tính các vị họ
Trần nơi lời tựa Nha Chử chính là đầu mối gia đình Trần Công Ngạn ở làng Thọ
An, sinh hạ dòng Thanh Châu – Nguyên Trưởng Phủ Quân và dòng Thái tổ Vô Ý Công
Nha Chử, và các chi nhánh trực thuộc.
Vị sáng nghiệp khai cơ
Thái tổ Cao Quý Công tự Vô Ý sinh hạ dòng Nha Chử, là Trần Nhị Lang tự Phúc
Tín, được các tư liệu cổ vô giá của Nha Chử xác nhận:
-
Vô Ý công thứ tử dã, Đồng Trưng nhị độ, thứ nhị công (mộ ông táng tại
xứ Đồng Trưng, là mộ cải táng lần 1, là người con thứ 2 trong gia đình).
-
Vô Ý công Tướng công vu tư tân ấp.
-
Bà Hoàng Thị Nhất Nương hiệu Từ Tín, nghĩa là mẹ Tín, tên ông.
-
Ông bà có 2 con trai được tập tước công.
Vị sáng nghiệp khai cơ Thủy tổ Trần Quý Công
tự Phúc Thiện sinh hạ dòng Thanh Châu, là Trần Nhất Lang tự Phúc Thiện, được
chính tư liệu cổ Thanh Châu xác nhận:
- Ngài là Trần Quý Công ra đi vào Nam, tự
tích đầu mối chép “Nam thiên lập ấp chiếm thanh nguyên” hay “Tiên Nguyễn chúa ứng nghĩa nhi
lai Việt Nam quốc”, và phẩm hàm của bà Nguyễn Thị Lan là Nhụ nhơn.
-Thế tịch nguyên Nghệ An thừa tuyên, Diễn
Châu phủ, Đông Thành huyện, Thái Xá xã.
-Tên thụy của ngài: Nguyên Trưởng Phủ Quân -
元長府君
- Sự nghiệp công thần của người cha được ghi
lại nơi tự tích “Bắc địa tòng vương khai thổ võ” hay “Nghệ An thừa tuyên phủ tòng”.
Gia phả Thanh Châu và Nha Chữ có một điểm chung rất rõ
là, các đời thượng thế tổ không chép danh tính đầy đủ, mà thể hiện thông qua tự
tích, sự kiện lịch sử đầu mối, là sự khái quát hóa diệu kỳ của dòng dõi danh
môn, do nghịch cảnh dồn nén mà xuất ra.
Hồng phúc thay dòng Trần Thái Xá, trải qua bao thăng
trầm, biến thiên của lịch sử, đến nay hậu duệ vẫn còn lưu giữ được những di
tích của các đời Tiên hiền nơi đất Nghệ An, với gần chục tập gia phả Hán tự,
cảo huyệt, phần mộ và tự tích. Để Thanh Châu và Nha Chử, ... những dòng hậu duệ
xa xứ được kết nối một cách chính xác.
Đối với hậu duệ Thanh Châu đến nay đã truyền hạ trên
17 đời, nhưng hiện tại đời thứ 13 còn có 4 cụ, tuổi đời thấp nhất là 58 tuổi,
rất phù hợp với thời gian sinh hạ trong những thế kỷ trước. Do đó, biên bản
nhìn nhận anh em giữa các vị lão tộc Thanh Châu và chi họ Đông Lũy vào trước năm
2.000, xác nhận Thủy tổ Phúc Thiện là Phúc Thiện hậu duệ 5 đời của tổ Chân Tâm,
hoặc tổ Phúc Thiện hậu duệ 5 đời của tổ Phúc Thọ (các tổ Phúc Thọ, Chân Tâm và Danh
Di, đều là em trai của tổ Công Ngạn),
chỉ đúng với dòng họ Trần Thái Xá, nhưng không phù hợp với nguồn sử liệu đầy đủ,
và các di tích mộ cổ dưới thời chúa Nguyễn của Thanh Châu.
Nay qua hội thảo này, chi họ Cổ Tháp trực thuộc Thanh
Châu xin được cải chính. Có vậy, công đức của Trần Công Ngạn, của Phúc Thiện,
Phúc Tín, ... mới được sáng tỏ, góp phần
làm rạng danh tông tổ dòng Pháp Độ công Thái Xá. Thanh Châu mới có căn cứ lập
hồ sơ đề nghị nhà nước công nhận ngôi song mộ của ông Phúc Thiện là di tích
lịch sử. Vào khoảng năm 2005, Thanh Châu đã một lần lập hồ sơ đề nghị nhà nước
xem xét, nhưng đã không được chấp nhận, bởi nguồn tư liệu do anh Trần Phẩm chi
Phú Chiêm cung cấp, thì ngài Thủy tổ Trần Phúc Thiện tại Thanh Châu, đã để lại
người vợ hiền và đàn con thơ nơi làng Đông Lũy, một thân đi Nam, sau đó kết
duyên cùng bà vợ kế Nguyễn Thị Lan vào thập niên đầu của thế kỷ XVII, sinh hạ
dòng Thanh Châu, tức ông bà không có công lao gì với nước, với dân, và cũng
không thể là tiền hiền làng Thanh Châu, nên hồ sơ đã được cơ quan chức năng trả
lại.
Đối với Nha Chử, về tự tích nơi câu đối, lời tựa và 2
đời đầu của thế phổ thì đã quá rõ, không còn gì phải bàn. Ngày kỵ Thái tổ Nha
Chử 18 tháng giêng âm lịch hành năm, so với ngày 22 tháng giêng năm Quý Dậu
1573, vua Anh Tông bị giết, rất có thể là ngày kỵ của tổ Trần Công Ngạn. Nhưng
với những đời tổ có chép năm sinh nơi thế phổ, và mốc thời gian năm Quý Hợi
1683 ?, thì còn có chỗ bất cập. Hy vọng trong điều kiện nào đó, Nha Chử sẽ tìm
được lời giải thích thỏa đáng.
Công
đức của tiên tổ Thanh Châu được khái quát khá rõ nơi văn tế: “Triệu bồi di tích tử
tôn sáng tạo toàn bằng tông tổ. Khái tưởng tiền nhân công liệt đổng trí sơn hải”, mà nay vẫn còn một
số di tích về mộ cổ và mộ chí. Có thể nói
đã không phụ lòng các đời Tiên hiền nơi đất Nghệ An – Thanh Hóa. Do đó, Thanh
Châu không có tham vọng nào hơn, nhưng với các nguồn sử liệu vô giá của tổ tiên
để lại, chúng tôi đang cố gắng nghiên cứu trong điều kiện có thể, với chút hy vọng
sớm làm sáng tỏ hành trạng, công lao của người đã sinh ra Thủy tổ Thanh Châu. Đồng
thời góp phần giải tỏa sự bất cập trong các biên bản nhìn nhận anh em trước
đây, đã làm cho dòng dõi huyền học, có nhiều công lao với nước, với dân trở
thành những cư dân bình dị nơi thôn dã. Tiên tổ chúng ta đã nhiều phen gặp nạn
nước, mà hậu duệ vẫn tồn tại đến nay, lẽ nào các ngài vẫn chưa được siêu thoát
?
Tại hội thảo này, nếu
được các bên liên quan có được nhận thức chung về các nguồn sử liệu như đã
trình bày, chúng tôi đề nghị nên tổ chức một lần cầu siêu bạt độ cho tổ Trần
Công Ngạn và những người thân đã bị sát hại trong cuộc chính biến năm ấy, tại Từ
đường Thanh Châu hoặc Từ đường Nha Chử (Giao Tiến).
(Bài viết này đã được vị lão tộc Trần
Ngôn thuộc phái Thanh Châu, người đã ký
biên bản nhìn nhận anh em tại Nghệ An năm 2.000, và các vị lão tộc Trần Điệt,
Trần Đình Quang nghiên cứu và cho ý kiến.)
Quảng Nam,
ngày 16/03/2013.
Biên
soạn: Phước Bình
*** Phụ lục câu đối
của hai nhà Nha Chử và Thanh Châu:
THÁI TỔ NHA CHỬ
|
THỦY TỔ THANH CHÂU
|
傳 起
世 家
當 敘
初 迹
陳 愛
裔 州
出 來
|
南 北
天 地
立 從
邑 王
佔 開
清 土
原 宇
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét