Trần Phước Bình
Gia phả cổ Nghệ An ghi:
Ngã tổ Pháp Độ công dĩ thiên hoàng chính
phái (Thời cụ đối bất cảm tường
sở xuất). Ư Lê Hồng Đức – Thánh Tông ngũ niên (Giáp Ngọ 1474), dữ đệ nhị nhân
Thỉ tự Sơn Nam
thiên Thanh Hóa trú lục niên. Lưu Trưởng, thứ nhị tử dữ tổ Bà tại Tống Sơn
huyện, nãi huề Đệ tam nam Thiện Tính công vãng cổ Hoan, tầm thiên Thái Xá, trú trì vu Phì Cam tự (hiệu
Liên Hoa tự) nội đạo trứ danh, bốc thọ tàng tại Hào Cường thôn phúc địa Hậu
làng xứ, tọa Mão hướng Dậu kim tồn, trúc thổ trạch tại Phú Hữu, Cồn Dù xứ (cổ
hiệu Nương Mao). Nam
Thiện Tính công hiệu Chân Thường sinh tam nam:
- Nhất lang
Trần Chân Tịch hiệu Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng.
- Nhị lang
Trần Chân Tính hiệu Huyền Thông.
- Tam lang
Trần Chân Thiên hiệu Huyền Linh.
Tổ
Trần Chân Tịch và bà Hoàng Thị Tâm. Giỗ ông ngày 23 tháng 8 âm lịch, cúng
hợp kỵ ngày 27/03.
Lăng mộ ông bà Chân Tịch tại Bảo Tháp,
xã Diến Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Ông bà sinh hạ được 4 con trai, được mấy con
gái không rõ nhưng cả dòng họ Chân Tịch thờ cô tổ Quế Hoa Nương.
Con trai trưởng là Trần Công Ngạn ở làng
Thọ An.
Con trai thứ 2 là Trần Phúc Thọ sinh hạ
Trần Thủ Hạnh và Trần Đắc.
- Dòng Trần Thủ Hạnh sinh hạ các chi họ hậu duệ ở các xã Diễn Hồng, Diễn
Tháp, Diễn Bình, Diễn Vạn, Diễn Kỷ, Diễn Đồng, Diễn Thọ, xã Vĩnh Thành huyện
Yên Thành, Diễn Liên, Diễn Tháp, Diễn Lâm, Diễn Phong, Diễn Ngọc.
- Dòng Trần
Đắc sinh hạ các chi họ Hải Thanh huyện Nghi Lộc, và Tiền Song Diễn Thịnh,......
Con trai thứ 3: Trần Chân Tâm, ông về xã
Đông Lũy, nay xã Diễn Phong, sinh hạ dòng Đông Lũy. Hậu duệ đời thứ 5 gồm các ông Trần Phúc Thiện, Trần Chỉnh, Trần Bá.
Con trai thứ 4: Trần Danh Di sinh hạ các
chi Quỳnh Diễn, Quỳnh Thọ, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Thuận.
Theo
tư liệu trên thì tổ Thiện Tính Công theo cha là Pháp Độ Công từ đất Thanh Hóa
vào Nghệ An năm 1479, năm đó Thiện Tính Công chưa lập gia đình. Nếu tổ Thiện
Tính cưới bà Lê Thị Từ Phúc (hiệu ông bà Chân Thường) vào khoảng năm 1485 –
1490, hơn năm sau sinh tổ Chân Tịch, và 20 năm sau sinh tổ Công Ngạn sẽ vào
khoảng năm 1511. Đến năm 1533, Nguyên Hòa năm thứ 1, tức năm Lê Ninh lên ngôi
hoàng đế hiệu Trang Tông tại sách Sầm Hạ nước Lào, Công Ngạn đã trên 20 tuổi.
Đích
tôn Trần Công Ngạn có tên trong gia phả Nghệ An, nhưng vì sao lại không có một
thông tin nào về mồ mả, về hậu duệ, và cũng không có Hán tự tảo một (mất sớm)
hay vô tự ?
Nay
theo gia phả Thanh Châu ghi: Thủy tổ Tính sơ công tự Phúc Thiện. Thế tịch nguyên Nghệ An thừa tuyên, Diễn
Châu phủ, Đông Thành huyện, Thái Xá xã. Tập hành trạng của Hòa thượng Diệu
Nghiêm (1738-1810) hậu duệ đời thứ 8 ghi: “Nhơn
kỳ viến tổ tại Đông Kinh, Nghệ An thừa tuyên phủ tòng, Tiên Nguyễn chúa ứng
nghĩa nhi lai Việt Nam
quốc”. Sử tích Thủy tổ “Bắc địa tòng
vương khai thổ võ - Nam
thiên lập ấp chiếm thanh nguyên”. Đã có căn cứ xác định Thủy tổ Phúc Thiện
cùng bà Nguyễn Thị Lan nhị nương, từ hành điện vua Lê ở Thanh Hóa, ứng nghĩa đi
cùng chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) vào Thuận Hóa năm 1558. Với mốc thời gian đó, đặt
vấn đề tổ Trần Công Ngạn làm quan triều Lê tại Thanh Hóa, đã sinh ra Thủy tổ
Trần Phúc Thiện.
Lần
theo chính sử triều Lê và triều Nguyễn, tìm những vị quan tên Ngạn:
1. Thiệu Bình năm thứ
4 (1437): Vũ Đình Ngạn làm ty hình viện đại
phu.
2. Hồng Đức năm thứ
10 (1479): .... Trẫn Lỗ tướng quân Lê
Đình Ngạn
3. Hồng Thuận năm thứ 6 (1516): Thuần Mỹ điện giám Trần Cảo ở trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường làm
loạn.... Trong đó có Phan Ất, Đình Ngạn
4. Chính Trị năm thứ
5- Mạc Thuần Phúc năm thứ 1(1562), Phò mã
đô úy Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn làm Chưởng phù Tây vệ.
5. Hồng Phúc năm thứ
1 – Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), vua
Lê Anh Tông bị giết, quan đại thần Cảnh Hấp, Đình Ngạn gặp nạn.
6. Quang Hưng năm thứ
6-Mạc Diên Thành năm thứ 6 (1583), Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho Nguyễn Tuấn Ngạn
đỗ tiến sĩ cập đệ, ...
7. Đinh Dậu, năm thứ
40 (1597) cùng tướng nhà Lê là Bùi Văn
Khuê, Phan Ngạn (ĐNTT).
Vậy, từ năm 1437 –
1597, có 4 vị Đình Ngạn, 1 vị Tuấn Ngạn, 1 vị Phan Ngạn, và 1 Ngạn quận công Mạc
Ngọc Liễn.
Trong 4 vị Đình Ngạn:
1 vị làm quan triều Lê Thái Tông, 1 vị làm quan triều Lê Thánh Tông, 1 vị làm
quan triều Lê Tương Dực, 1 vị làm quan triều Lê Anh Tông (thời Nam triều, Bắc
triều). Vậy, duy nhất chỉ có quan đại thần Đình Ngạn gặp nạn dưới triều Lê Anh
Tông, là phù hợp với năm sinh khoảng 1511 của Trần Công Ngạn, trùng hợp với
hành cung vua Lê tại Thanh Hóa, nơi xuất phát của ông bà Phúc Thiện vào Nam năm
1558.
Sự kiện này Đại Việt
sử ký toàn thư chép: “Hồng Phúc năm thứ 1
– Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1572), Mùa xuân tháng giêng, vua tế trời đất ở đàn Nam
Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất.
Vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu là Hồng Phúc năm thứ
1.
Tháng 11 ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hại Tả tướng
Trịnh Tùng. Tả tướng giả vờ không biết, gửi biếu nhiều vàng. Khi Cập Đệ đến tạ
ơn, Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng
bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết
chết, tướng sĩ các ngươi không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì
phải giết cả họ. Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động.
Bấy giờ, Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: “Tả tướng quốc cầm
quân, quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng cùng tồn tại với ông ta được”. Vua nghe
nói vậy, hoang mang nghi hoặc, đương đêm bỏ chạy ra ngoài, đem theo bốn hoàng tử
cùng chạy vào thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng bàn với các tướng rằng: Nay
vua nghe theo lời gièm pha của kẻ tiểu nhân đem ngôi báu xiêu giạt ra ngoài.
Thiên hạ không thể một ngày không có vua, ... Chi bằng trước hết hãy tìm hoàng
tử lập lên để yên lòng người, rồi sau sẽ đem quân đi đón vua cũng chưa muộn. Bấy
giờ hoàng tử thứ 5 là Đàm ở xã Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên, bèn sai người đi
đón về tôn lập làm vua, đó là Thế Tông.
Gia Thái năm thứ 1-Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1573), tháng giêng ngày
mồng một, ... tôn hoàng tử lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá, ban dụ đại
cáo: “.... Ngày 26 tháng 2, bị kẻ gian là bọn Cảnh Hấp, Đình Ngạn gièm pha, ly
gián, đến nổi xa giá phiêu giạt ra ngoài, thần dân trong nước không chỗ nương tựa.
.....”
Chính sử triều Lê
không đề cập đến việc xử án đối với 2 ông Cảnh Hấp và Đình Ngạn, nhưng với đoạn
văn: “Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng bắt giết đi rồi sai người nói phao
lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết chết, tướng sĩ các ngươi không được
sợ hãi, kẻ nào chạy trốn hoặc làm phản thì phải giết cả họ. Thế là quân lính đều
khiếp sợ, không ai dám hành động”, đã xác định hai ông không thể thoát
chết, nếu 2 ông chạy thoát được thân thì chính sử đã có cơ sở để buộc tội 2 ông
rõ ràng và chắc chắn hơn.
Song để làm rõ sự kiện
này là vô cùng khó, nhưng đặt vấn đề với mong muốn được các nhà nghiên cứu quan
tâm bàn luận cũng là điều nên làm. Nếu có thông tin về 2 ông Cảnh Hấp và Đình
Ngạn đã có dòng họ nào đó nhìn nhận, thì cũng không làm thay đổi thế tịch họ Trần
Thái xá của ông bà Phúc Thiện Thanh Châu.
Lại được gia phả, đặc
biệt là nội dung lời tựa của Thế phổ họ Cao Trần Nha Chữ, có nhiều điểm tương đồng
với sự kiện tại hành cung vua Lê năm 1573. Nhất là cha con ngài Bong “Nhất phụ, nhất tử” về vùng tân ấp Nha Chữ,
cải họ Trần thành họ Cao công, lời tựa xác định gốc Trần gia biết tường tận,
nhưng không viết cụ thể.
Lại còn câu đối nơi
Từ đường: “Khởi gia tự tích Ái Châu lai.
Truyền thế đương sơ Trần duệ xuất”
Tạm dịch: Nhà khởi đầu mối, dấu vết ở Thanh
Hóa một thời gian (lai)
Truyền thế đang hồi sơ (nhất,
nhị đời) thuộc dòng dõi họ Trần.
(Hán tự lai có nghĩa: đến/ lại/ vời đến/khoảng/hơn
chút ít).
Theo đó, họ Trần ở
Thanh Hóa đang hồi sơ khai, nhưng đã để lại dấu vết đầu mối, trước khi về Nha
Chữ cải họ.
Nội dung câu đối
hoàn toàn khớp với 2 trang lời tựa trong thế phổ Hán tự.
Theo nghiên cứu về chính sử thời Nguyễn Sơ, thì
cuộc chính biến tại hành cung vua Lê ở Thanh Hóa năm 1572 – 1573, đã có ít nhất
2 vị quan nhà Lê quy vu Nam
thổ, đó là: “Trương Công Gia - Điện
tiền Đô kiểm điểm Lương quận công đời Lê. Lúc Thái tổ hoàng đế vào Thuận
Hóa, đã đem gia quyến đi theo. Đại Việt sử ký toàn thư, từ năm 1570 đến 1574,
có 4 lần chép Lương quận công, nhưng không nêu danh tính. Năm 1571, ghi “Lương quận công được thăng Thiếu phó” .
Năm 1574, ghi “Bấy giờ Tiết chế Trịnh
Tùng nắm hết mọi quyền trong ngoài. Bọn Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách và Lương quận công ngầm mưu sát hại. Việc
tiết lộ, đều bị bắt hạ ngục để xử tội. Bà phi của Thái vương là Nguyễn thị (Mẹ
của Tiết chế Trịnh Tùng) ra sức cứu gỡ mới được khỏi tội, nhưng bị tước quyền.
Lương Văn Chính: người huyện Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên. Lúc trước Văn Chính làm quan nhà Lê đến chức Thiên vũ Vệ đô chỉ huy sứ. Theo Thái tổ
vào Nam.
Khoảng năm Mậu Dần (1578), người Chiêm Thành đến lấn cướp, Chính tiến quân đến
sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ Thành. Vì có quân công, thăng Đặc
tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, tước Phú Nghĩa hầu”.
ĐVSKTT
chép Thanh Hóa lần đầu tiên tại BK 12-25a/ Quang Thuận năm thứ 7 (1466): “Đặt
13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An,
Thuận Hóa, ....”. Do đó Hán tự Ái Châu nơi câu đối là mượn địa danh gốc của
Thanh Hóa để cho câu đối được vần.
Thủy
tổ Thanh Châu và Thái tổ Nha Chữ có phải là anh em, còn phải có thời gian suy
xét tiếp.
THÁI TỔ HÒE NHA
|
THỦY TỔ THANH CHÂU
|
傳 起
世 家
當 敘
初 迹
陳 愛
裔 州
出 來
|
南 北
天 地
立 從
邑 王
佔 開
清 土
原 宇
|
Với bài nghiên cứu của bác Lã Mạnh Hùng, người cháu ngoại về dòng dõi Cao Trần có đoạn: Gia phả họ Cao-Trần Giao Tiến, Quyển thứ Nhất, trang 2 ghi:“Thái tổ tộc Cao-Trần Giao Tiến gốc họ Trần tên huý là Bong tự Vô Ý, quê ở vùng Bến Mía, xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa - nay là thôn Tứ Trụ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa[16]. Vào năm 1683 (Quý Hợi), đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 3, tổ [Trần Bong] đưa người con trai thứ hai đến ấp Hòe Nha, trấn Sơn Nam Hạ (nay là xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) làm ăn, sinh sống và đổi từ họ Trần sang họ Cao. Tổ là người sáng nghiệp, khai cơ ra dòng họ Cao-Trần xã Giao Tiến bắt đầu từ đây”
Nếu xác định năm Chính Hòa
thứ 3 (1683), Thái tổ húy Bong đưa người con trai thứ hai đến ấp Hòe Nha, thì
không thể là Trần Công Ngạn sinh khoảng năm 1511 nơi gia phả Thái Xá, do khoảng
cách về thời gian là 172 năm, đồng thời không giải thích vì sao phải cải họ, vì
sao phải “Nhất phụ, nhất tử” đến vùng tân ấp Nha Chữ thuộc Sơn Nam hạ.
Mặt khác, bác Mạnh Hùng sau
khi đối chiếu gia phả Thái Xá và Nha Chữ cho rằng: Trần Thiện Tính hiệu Chân
Thường – là Trần Quý Công tự Vô Tâm. Sinh hạ Nhất lang Trần Chân Tịch hiệu
Huyền Nghiêm húy Phúc Quảng – là Trần Nhất lang tự Phúc Thiện; Nhị lang Trần
Chân Tính hiệu Huyền Thông – là Trần Nhị lang tự Phúc Tín; Tam lang Trần Chân
Thiên hiệu Huyền Linh – là Trần Tam lang tự Chân Không.
Xét về Hán tự có sự khác
biệt không nhỏ, chỉ đúng duy nhất với Cô tổ Trần Quế Hoa Nương.
Đối với
hậu duệ Thanh Châu có số đời trên 17 đời, nhưng hiện tại đời thứ 13 còn có 4
cụ, tuổi đời thấp nhất là 58 tuổi. Do đó, tác giả Mạnh Hùng đã có sự nhầm lẫn
khi trích dẫn tư liệu của anh Trần Phẩm, xác định Thủy tổ Phúc Thiện là hậu duệ
5 đời của tổ Chân Tâm dòng Đông Lũy. Đây là chỗ bất đồng của nội bộ Thanh Châu
đã đến hồi kết.
Gia phả
Thái Xá xác định đích tôn Trần Công Ngạn ở làng Thọ An thuộc huyện Quỳnh Lưu,
tiếp giáp với Thanh Hóa. Trong khi đó, 3 dòng em ruột của ngài là Phúc Thọ,
Chân Tâm và Danh Di, lại ở các làng không xa ngôi song mộ của cha mẹ (ông bà
Chân Tịch) tại làng Bảo Tháp, đều thuộc huyện Diễn Châu. Hay chăng, làng Thọ
An, Quỳnh Lưu, chính là nơi vua Lê Trang Tông dừng chân thời gian, trước khi
tiến quân về Thanh Hóa khoảng năm 1540 ?
Tóm lại,
mọi nghiên cứu về tổ tiên nơi đất Bắc của họ Trần Thanh Châu chỉ mong tìm lại
cái tinh
thần của tổ tiên. Những gì Nha Chữ, Thanh Châu đang có, nhiều chi họ
Trần quanh ta có muốn cũng không thể có được. Sự khác nhau về nghiên cứu dòng
họ là đương nhiên, bởi nguồn tư liệu lịch sử còn sót lại không nhiều. Hy vọng,
qua các cuộc mạn đàm, trong đó có bài viết của bác Mạnh Hùng người cháu ngoại
định cư ở hải ngoại đầy tâm huyết của chi họ Cao Trần, đã giúp chúng ta có cái
nhìn khách quan hơn về lịch sử dòng họ, khai thác tốt hơn những giá trị của
chính sử, của gia phả. Nhân đây cho tôi được gửi lời thăm hỏi sức khỏe và cảm
ơn về nội dung bài viết của bác về họ Trần chúng ta.
Lời tựa
của Thế phổ Nha Chữ, là tài năng, đức độ của Thái tổ Cao Cái, đã để lại những
giá trị lịch sử của dòng dõi danh môn. Nếu chỉ dừng lại ở bài viết của bác Mạnh
Hùng là điều đáng tiếc. Nay lại có thêm tư liệu của họ Nguyễn Trần – Nam Đàn, có nhiều điểm tương đồng
với gia phả Nha Chữ, cũng có thể giúp chúng ta nghiên cứu tốt hơn về đầu mối
Trần gia tại Thanh Hóa, mà sau đó không một hậu duệ nào còn ở lại.
Thanh Châu, Ngày 23/02/2013.
TRẦN PHƯỚC BÌNH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét